Thursday, October 19, 2023

BÀI THƠ: LÊN LÃO (Nguyễn Khuyến - 阮勸)

Chép lại từ trang mạng:
https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Khuy%E1%BA%BFn/L%C3%AAn-l%C3%A3o/poem-Jg_4_inbL47zGqzn3fJTrw
Ông chẳng hay ông tuổi đã già,
Năm nay ông cũng lão đây mà.
Anh em, làng xóm xin mời cả,
Xôi bánh, trâu heo cũng gọi là.
Chú Đáo bên làng lên với tớ,
Ông Từ ngõ chợ lại cùng ta.
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ,
Có rượu thời ông chống gậy ra.

(Nguyễn Khuyến)

Rút từ Quốc văn tùng ký (AB.383), Quế Sơn Tam nguyên thi tập (A.3160), Quế Sơn thi tập (A.469). Tiêu đề trong Quế Sơn Tam nguyên thi tập chép là Năm mươi thọ, Quế Sơn thi tập chép là Hý tác.

Theo phong tục của địa phương nhà thơ trước đây, hàng năm vào ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch, các cụ bô lão trong làng đến sáu mươi tuổi thì làm lễ tế ở đình làng gọi là lễ lên lão. Còn các cụ từ năm mươi lăm tuổi trở lên thì vào ban lão làng, trông coi việc tế lễ cho đến sáu mươi tuổi mới thôi. Ý nói nhà thơ cũng đã đứng vào hàng lão làng.

Hai ông Đáo và ông Đoài cùng tên lão một lần với nhà thơ. Chú Đáo ở giáp Đoài, Nguyễn Khuyến ở giáp Đông (cùng làng Vị Hạ). Ông Từ tên là Mai Đặc, ở xóm Chợ, vì ông giữ chức Thủ từ nên gọi là ông Từ.

Nguồn:
1. Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971 (tái bản 1979)
2. Nguyễn Khuyến – Tác phẩm, Nguyễn Văn Huyền chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 1984
3. Thi hào Nguyễn Khuyến: đời và thơ, Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Giáo dục, 1994

"TAM THẬP NHI LẬP, TỨ THẬP NHI BẤT HOẶC" VÀ LỜI GIẢI CHO CUỘC ĐỜI

Chép lại từ trang mạng: 
29/11/2017
Lời giải cho cuộc đời: 30 tuổi lập cái gì, 40 tuổi mê điều chi?

Khổng Tử từng nói: "Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ", ý rằng: "Ta 15 tuổi chí ở học hành, 30 tuổi có thể tự lập, 40 tuổi không còn nghi hoặc, 50 tuổi biết được mệnh Trời, 60 tuổi ta biết điều phải trái, 70 tuổi tâm theo ý mình, có thể làm một cách tùy ý nhưng lại không vượt quá quy tắc".

Đây là tổng kết của Khổng Tử về cuộc đời mình, cũng là tấm gương cho những ai muốn theo đuổi một cuộc đời hoàn mỹ, đặc biệt là sau tuổi 30. Vậy thì khi đến ngưỡng 30 tuổi, 40 tuổi, 50 tuổi, 60 tuổi, 70 tuổi, chúng ta cần sống như thế nào?

1. Tam thập nhi lập: 30 tuổi có thể tự lập

30 tuổi là ngọn núi chia đôi dòng nước, chia đôi ngã rẽ của đời người. Con người ở độ tuổi này về cơ bản đã có thể xác lập được phương hướng phát triển cuộc đời mình. Họ cũng có thể dựa vào bản lĩnh của tự thân mà gánh vác những trách nhiệm mình cần đảm đương.

"Nhi lập" ở đây là lập thân, lập gia, lập nghiệp.

Lập thân là xác lập nhân cách và sự tu dưỡng của bản thân. Điều này bao gồm việc tu dưỡng trong tư tưởng và hàm dưỡng đạo đức, bồi dưỡng năng lực và có thể tự lực tự cường. Trong đó sự tự cường là cái gốc lập thân, là yêu cầu cơ bản nhất khi mỗi người muốn đứng vững trong xã hội.

Lập nghiệp là xác lập công danh, sự nghiệp mà mình muốn theo đuổi. Người 30 tuổi nên có nghề nghiệp vững chắc. Dẫu theo đuổi bất kỳ công việc nào cũng cần có một năng lực nhất định. Nói theo cách hiện đại chính là có một sở trường về kỹ năng nào đó. Lập nghiệp là phương thức mưu sinh, là cơ sở để độc lập về kinh tế. Đây cũng là quá trình con người ắt phải trải qua để thực hiện giá trị nhân sinh.

Lập gia là lập gia đình. Xã hội cạnh tranh mạnh mẽ ngày nay đã kéo dài tuổi lập gia đình của những người trẻ. Nhưng đứng từ góc độ sinh sôi nảy nở của nhân loại mà nói thì độ tuổi này lại rất phù hợp. Hơn nữa con người khi đến 30 tuổi sẽ hiểu rõ về hôn nhân và trách nhiệm.

Ý nghĩa của gia đình là tổ ấm. Lập gia đình thì tâm hồn mới tìm được bến đỗ bình yên để ngơi nghỉ. Còn về trình tự lập nghiệp và lập gia đình, do tình huống của mỗi người mỗi khác, nên chúng ta không phải câu nệ thứ tự trước sau, mà hai điều này đều tương trợ cho nhau.

2. Tứ thập nhi bất hoặc: 40 tuổi không còn mê hoặc 

40 tuổi là độ tuổi dùng điều bất biến để ứng vạn biến, là độ tuổi có thể nhìn thấu vạn vật trên thế gian, cũng là độ tuổi trưởng thành. "Bất hoặc" tức là tỉnh táo, là minh bạch về bản thân, về người khác và về thế giới.

Con người sống trong xã hội thì không thể tách khỏi xã hội. Mối quan hệ giữa con người và xã hội là mối quan hệ giữa cá thể và quần thể. Cá thể là một phần tử trong quần thể. Lý tưởng và nguyện vọng của một cá nhân phải được kiến lập dựa trên cơ sở của một xã hội hiện thực. Trong tâm cần có một sức mạnh điềm nhiên khi ứng phó với thế giới bên ngoài.

Hiểu thấu bản thân mình

Chính là khiến nội tâm mình dần dần trở nên lớn mạnh trong quá trình tôi luyện, biến những thứ bên ngoài trở thành năng lượng bên trong. Người 40 tuổi là người có độ tuổi thực tế nhất, không nên phạm quá nhiều sai lầm và đi đường vòng.

Hiểu rõ trách nhiệm của bản thân

Đặc điểm lớn nhất của người 40 tuổi là hiểu rõ trách nhiệm của bản thân mình. Họ phải gánh vác trách nhiệm xã hội, trách nhiệm gia đình, hiếu thuận với cha mẹ, và chịu trách nhiệm dưỡng dục con cái.

40 tuổi là thời kỳ huy hoàng trong đời người, cũng là thời kỳ có cống hiến lớn nhất cho gia đình và xã hội.

3. Ngũ thập nhi tri thiên mệnh: 50 tuổi biết được mệnh Trời

Mệnh Trời còn gọi là số mệnh, 50 tuổi biết mệnh Trời. Người 50 tuổi đã tới giai đoạn chín muồi trong cuộc đời. Lúc này có rất nhiều việc trong đời dường như đã thành hình.

Người 50 tuổi hiểu biết hơn về xã hội nên càng thấu hiểu bản thân hơn. Họ học được cách thản nhiên đối mặt với mọi việc. Họ không oán Trời, không trách người, không lười nhác.

Hiểu về thiên mệnh

Người 50 tuổi sức khỏe không còn như trước. Họ càng hiểu rõ hơn về sự yếu nhược của sinh mệnh, hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của sức khỏe. Sức khỏe là vốn liếng của sinh mệnh. Không khi nào con người lại có trải nghiệm sâu sắc như thế về sức khỏe như ở độ tuổi này. Họ sẽ chú trọng tới việc dưỡng sinh hơn trước và bắt đầu tích cực rèn luyện.

Người 50 tuổi đã có sự đánh giá khá chuẩn xác về bản thân mình. Họ rất ít khi dao động, khiến tâm trạng lên lên xuống xuống vì một chuyện gì đó. Trải qua bao nhiêu năm vất vả họ cũng có một điều kiện kinh tế nhất định, tham vọng tiền tài cũng không còn mạnh mẽ như khi còn trẻ nữa.

Biết trân trọng tình cảm

Người 50 tuổi đã trải qua sự gột rửa của thời gian. Họ sẽ biết trân quý hơn người bạn đời đồng cam cộng khổ trong đời mình, biết trân trọng hơn đứa con đã trưởng thành và những người bạn cũ luôn kề vai sát cánh bấy lâu nay… Tình thân, tình bạn, tình yêu, những điều này dần sẽ trở thành những điều quan trọng trong số những điều được coi trọng trong lòng họ. Tâm danh lợi của họ cũng dần tiêu tan.

4. Lục thập nhĩ thuận: 60 tuổi tai biết điều phải trái

Tới khi 60 tuổi, dẫu cho ai nói ngả nói nghiêng, dù gặp phải trắc trở, khó khăn thế nào thì con người cũng đều không quá kích động. Họ có thể suy nghĩ mọi sự một cách điềm tĩnh và thuận theo quy luật của sự vật. Họ có thể thản nhiên trước vinh nhục, ngộ ra ý nghĩa đời người, nhìn thấu kiếp nhân sinh và coi nhẹ danh lợi.

60 tuổi nhìn thấu kiếp nhân sinh

Từ khi nghỉ hưu, họ chuyển từ vai trò chính ngoài xã hội về với vai trò chính trong gia đình, vui hưởng đạo cùng trời đất. Người 60 tuổi đã minh bạch những điều này, nên có thể vui vẻ tiếp nhận cuộc sống hiện thực và hiểu rõ cuộc sống nên có của một người ở độ tuổi này.

60 tuổi nhìn thấu sinh mệnh

Người 60 tuổi phải sống thật mạnh khỏe, vui vẻ, điều này cũng là một sự cống hiến đối với xã hội. Ý nghĩa của sinh mệnh là nghĩ cho người khác nhiều hơn là đòi hỏi cho riêng mình. Khi bạn đã làm được thì cũng không còn gì phải nuối tiếc nữa.

Người 60 tuổi nhìn thấu danh lợi, nhờ trải qua sự tôi luyện của tháng năm mà lưu lại những kinh nghiệm phong phú của bản thân mình.

Trong cuộc sống nhàn nhã, họ thường hồi tưởng về những ký ức đắng cay ngọt bùi như một trải nghiệm đặc biệt trong mùa thu cuối đời. Khi đã về hưu thì họ chỉ còn sót lại một danh xưng: "Người về hưu". Lúc này duy chỉ có sức khỏe là của bản thân mình. Vậy nên giữ gìn chăm sóc sức khỏe cho mình, sống mạnh khỏe, hạnh phúc mới là điều quan trọng nhất.

5. Thất thập tòng tâm sở dục: 70 tuổi tâm theo ý mình

Người 70 tuổi có thể muốn gì làm nấy theo cách nghĩ của mình. Họ biết cách sống thuận theo tự nhiên, thích ứng với mọi hoàn cảnh, cũng không được vượt quá quy củ.

Cơm ăn không quan trọng cao lương mỹ vị hay đạm bạc đơn sơ, chỉ cần thấy ngon miệng là được. Phòng ốc không quan trọng lớn hay nhỏ, chỉ cần sống vui vẻ là được. Hãy làm những chuyện bản thân thấy hứng thú, đừng oán người, trách trời, trách đất, cũng đừng để tâm lo nghĩ quá mức tới người khác. Thấy sức khỏe suy giảm từng ngày cũng đừng hoảng hốt, thấy cái chết cận kề mỗi ngày cũng đừng khiếp sợ. Mọi thứ cứ thuận theo tự nhiên, tùy cảnh mà an.

Mỗi giai đoạn trong đời người đều có những trải nghiệm riêng trong từng giai đoạn ấy. Chúng ta không nhất định cứ phải làm theo một thước đo hay một chuẩn mực nào đó. Nhưng mỗi một giai đoạn chúng ta đều nên có sự kỳ vọng về bản thân mình. Tệ nhất thì 10 năm một lần chúng ta cũng nên ngẫm nghĩ lại về bản thân. Những điều không thể quên chính là hồi ức, nhưng điều vẫn tiếp diễn là cuộc sống. Hãy sống hết mình mỗi ngày để có thể sống trọn vẹn cả một đời.

Theo ĐKN


Monday, October 9, 2023

TÌNH GIÀ... TUỔI GIÀ.. - Đặng Thị Thanh An

Tác giả: Đặng Thị Thanh An


Trăm năm trong cõi người già
Chuyện gần nhớ ít, chuyện xa nhớ nhiều
Chuyện từ thời bé tẻo teo
Nhớ từng chi tiết chẳng điều nào quên
Thế mà chuyện mới kề bên
Chưa ra khỏi ngõ đã quên mất rồi
Mắt đang đeo kính hẳn hoi
Bà tưởng mất kính khắp nơi bà tìm
Tờ báo ông để ngăn trên
Ông lục ngăn dưới nên tìm chẳng ra
Chìa khóa bà để trên nhà
Bà chạy xuống bếp tìm ba bốn lần
Dép, giày ông để ngoài sân
Gầm giường ông kiếm nên lần không ra.
Gặp người hàng xóm chào qua
Nghĩ hoài không nhớ ông, bà tên chi
Thẫn thờ ngồi trước ti vi
Mắt tuôn đầy lệ bờ mi ướt nhòe
Thương người, cám cảnh, nhớ quê
Chuyện nhà, chuyện nước khó bề ngồi im
Xem ra cảm xúc đầy mình
Dễ hờn,dễ tủi,nặng tình nghĩa nhân!
Tai nghe phải nhắc nhiều lần
Tập trung cố gắng mười phần hiểu ba
Mắt nhìn mở đến tối đa
Trông gà hóa cuốc, quạ thành đa đa
Lương hưu tưởng đã đưa bà
Ông yên chí cất đến ba, bốn ngày
Hết tiền bà giục đi vay
Giật mình thảng thốt: tiền đây thưa bà.
Bà lườm ông chỉ cười xòa
Quên tiền thì có, quên bà thì không.

(Đặng Thị Thanh An 3/2021)

Tuesday, September 19, 2023

CHƯA TU VÀ ĐÃ TU

(Sưu tầm)

1. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng biết níu giữ là khôn ngoan. Nhưng khi TU RỒI, ta mới nhận ra rằng biết buông bỏ mới là trí tuệ.
2. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng người giàu có là người lấy về rất nhiều. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng người giàu có là người cho đi rất lớn.
3. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng mạnh mẽ là vượt qua người khác. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng mạnh mẽ là vượt qua chính mình.
4. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng kẻ nói nhiều là kẻ thông minh. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng người biết lắng nghe mới là người thông thái.
5. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng nếu ta thắng phải có hơn người thua. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng đến nơi là mọi người cùng thắng.
6. Khi CHƯA TU, ta thường muốn sống thật lâu. Nhưng khi TU RỒI, ta muốn sống sao cho có ý nghĩa với cuộc đời .
7. Khi CHƯA TU, ta thường muốn người khác chấp nhận mình. Nhưng khi TU RỒI, ta nhận ra rằng chỉ cần mình chấp nhận mình là đủ.
8. Khi CHƯA TU, ta mong muốn thay đổi cả thế giới. Nhưng khi TU RỒI , ta mong muốn thay đổi chỉ bản thân mình mà thôi.
9. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng khi trưởng thành, ta sẽ không còn bị tổn thương nữa. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng, trưởng thành là biết điều chỉnh tiếng khóc về chế độ im lặng.
10. Và khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng có tiền sẽ có tình yêu, có vật chất người ta sẽ quý. Nhưng khi TU RỒI, ta sẽ biết rằng: KHI SỐNG THIỆN LƯƠNG BẠN SẼ CÓ MỌI TRÁI TIM YÊU THƯƠNG
(Sưu tầm)

Sunday, September 10, 2023

BỊ BẮT VÌ NGHE LỜI VỢ

(Sưu tầm)
Một tên trộm bị bắt khi cố đột nhập vào một cửa hàng bán bánh Trung thu lúc nửa đêm. Sau khi xem lại băng ghi hình, thẩm phán nhìn tên tội phạm một cách kỳ quái:
- Tôi không tài nào hiểu được tại sao cậu trộm ở một cửa hàng đến ba lần trong một đêm. Rõ ràng lúc đầu đã lấy được bánh rồi sao lai phải mang trả lại chứ?
Tên trộm thở dài:
- Vì vợ tôi thưa ngài.
Vị thẩm phán tò mò:
- Ý cậu là sao?
Tên trộm khổ sở đáp:
- Lúc đầu tôi lấy một hộp bánh nhưng vợ tôi chê nhỏ quá, khi tôi quay lại đổi hộp khác to hơn thì cô ấy lại bảo không thích ăn bánh nhân thập cẩm, đến lần đổi thứ ba thì bị bắt.
(Sưu tầm)

Sunday, September 3, 2023

MINH OAN TRẦN KHẮC CHUNG VÀ HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA

Tác giả: Hoàng Hương Trang

HuyenTranCongChua.jpg

Từ xưa đa số người Việt mặc nhiên cho rằng Trần Khắc Chung và Huyền Trân Công Chúa là một mối tình. Họ kể truyền miệng đời này qua đời khác thành ra vô tình đã "Đóng Đinh" đó là một mối tình như có thực. Chính tôi từ mấy chục năm qua cũng tin như vậy. 

Cứ cho là trước khi đi làm vợ vua Chiêm Chế Mân, Huyền Trân Công Chúa đã có ý tình dan díu với Trần Khắc Chung, nên khi Chế Mân chết, vua Trần sai Khắc Chung đi cứu con gái khỏi bị hỏa thiêu chết theo chồng theo phong tục của hoàng gia Chiêm Thành, thì hai người "Tình cũ" lại được "tái hợp". 

Cuộc cứu hộ Công Chúa thành công và hai người lênh đênh trên biển một thời gian khá dài có đến hàng năm, mới về tới Thăng Long.

Mãi cho đến khi thành phố Huế xây dựng Trung tâm văn hóa Huyền Trân, mà dân Huế gọi là Đền thờ Huyền Trân Công Chúa; tôi có dịp đến viếng, tìm hiểu cặn kẽ, đọc kỹ sử liệu và văn bia tại đền thờ, thật sự tôi đã sững sờ, ngỡ ngàng khi biết ra sự thật có trong sử liệu và văn bia tại Đền Thờ do Ban Nghiên Cứu Sử uy tín đã viết lại cho đúng sự thật. Ôi! Một nỗi oan đã kéo dài với thời gian mấy thế kỷ, mà không ai minh oan cho hai người. 

Theo sử liệu, khi Công Chúa Huyền Trân còn ở Thăng Long, chỉ mới 13 tuổi, đã được vua cha hứa gả cho Chế Mân. Khi đó, Lão Tướng Trần Khắc Chung đã rất già, vốn không phải họ Trần, mà là họ Đỗ, vì có nhiều công chiến trận nên được vua cho cải ra họ Trần. Lão Tướng ngoài tài trận mạc, còn có tài thêu thùa rất khéo tay, vì vậy các công chúa trong triều được Lão Tướng dạy cho học thêu thùa. 

Công Chúa Huyền Trân lúc đi lấy chồng mới 15 tuổi, là cháu ngoại của Danh Tướng Trần Hưng Đạo. Lúc đó, Lão Tướng Khắc Chung đã già, đã có 3 đời vợ, con cháu đầy đàn, không thể nào lại dan díu với cô Công Chúa 13 tuổi là cháu ngoại của Trần Hưng Đạo được. Thuở xa xưa trên 700 năm trước đó, một cô gái nhỏ mới 13, 14 tuổi có dám yêu một ông già đã có vợ, con, cháu đầy đàn? Ngay thời đại ngày nay, điều đó cũng khó có thể xảy ra.

HuyenTranCongChuaTTVanHoa.jpg
Toàn cảnh Khu trung tâm văn hóa Huyền Trân tại thôn Ngũ Tây, phường An Tây, thành phố Huế.

Cho đến khi vua Trần sai đi cứu Công Chúa là vì Lão Tướng đáng tin cậy, có nhiều mưu kế, từng trải trận mạc, mới có thể cứu được Công Chúa thoát khỏi lên giàn hỏa thiêu.

Lúc này Công Chúa mới sinh Hoàng Tử được 2 tháng. Lão Tướng Khắc Chung đã tương kế tựu kế, vừa thay mặt vua Trần để phúng điếu với triều đình Chiêm Thành (Chế Mân chết, Chế Cũ lên nối ngôi vua cũng chỉ mới trên dưới 15 tuổi, là con trai của bà Hoàng hậu lớn của Chế Mân, còn con của Huyền Trân là Chế Chí mới sinh được 2 tháng) vừa đề nghị với triều đình Chiêm Thành cho phép Công Chúa Huyền Trân ra biển Đông để hướng về quê hương bái biệt vua Cha, rồi sẽ trở vào để lên giàn hỏa.

HuyenTranCongChua2.jpg
Điện thờ Công chúa Huyền Trân trong Khu trung tâm văn hóa Huyền Trân.

Triều đình Chiêm Thành đã bị mắc mưu của Lão Tướng Việt Nam, đã bằng lòng cho Công Chúa Huyền Trân ra biển để bái biệt vua cha.

Vừa hay trời phù hộ cho Lão Tướng, sương mù dày đặc bao phủ cả biển khơi, ba bên bốn bề đều không thấy rõ, nhân cơ hội đó, Lão Tướng đưa Công Chúa qua thuyền nhẹ, và dông tuốt về phía Bắc. Trên thuyền chỉ có mấy thủy binh chèo thuyền, thuyền nhẹ đi rất nhanh, sương mù đã che khuất bóng họ.

Khi thuyền vào đến vùng biển Quảng Trị thì bị bão lớn, sóng đánh dữ dội suýt chìm thuyền, phải tấp vào bờ. Vùng đất Quảng Trị bấy giờ thuộc hai Châu Ô, Lý là đất mà Chế Mân đã dâng cho vua Trần làm sính lễ để cưới Công Chúa nhà Trần.

Đất đã là của nước Việt, có quan trị nhậm do vua Trần cử đến cai quản. Chính quan cai quản đất mới này đã giấu nhẹm rất bí mật tung tích của Lão Tướng và Huyền Trân, chờ hết mùa giông bão, sửa chữa thuyền xong mới có thể tiếp tục hành trình ra Bắc.

Tại sao phải giấu tung tích?

Bởi thủy quân Chiêm Thành rất giỏi thủy trận, đã từng đánh ra tận Thăng Long thời Chế Bồng Nga, do đó họ có thể cho thuyền truy lùng thuyền của Khắc Chung và Công Chúa. Hai người được vị quan Việt Nam giấu kỹ đồng thời lo sửa chữa thuyền bè đã bị bão làm hư hỏng nặng. Hơn năm sau, hết mùa bão, trời yên biển lặng, quân Chiêm không truy đuổi nữa, thuyền cũng đã sửa chữa xong, họ mới tiếp tục cuộc hải trình ra Bắc.

Tuy được cứu thoát, nhưng Công Chúa trong tâm trạng mất một đứa con trai đầu lòng mới 2 tháng tuổi, cùng với nỗi đau vừa mất chồng, cùng nỗi sợ hãi vừa thoát lên giàn hỏa thiêu. Thử hỏi trong tâm trạng đau buồn mất chồng, mất con, và lo sợ như thế, còn tâm trạng đâu để dan díu, ngoại tình?

Sở dĩ người đời sau thêu dệt nên mối tình Trần Khắc Chung và Công Chúa Huyền Trân là do họ đồng hóa với mối tình Tây Thi – Phạm Lãi bên Tàu.

Sau khi báo thù vua Tàu, Tây Thi đã theo người tình cũ là Phạm Lãi chèo thuyền chu du vào Ngũ Hồ sống với nhau, lênh đênh bềnh bồng trên sóng nước, bỏ lại thế gian sau lưng. Do đó người Việt đời sau cứ thản nhiên đồng hóa mối tình Tây Thi – Phạm Lãi và Huyền Trân – Trần Khắc Chung như là một.

Đó là nỗi oan của Lão Tướng Trần Khắc Chung và là nỗi oan của sương phụ Huyền Trân mà ngày nay chúng ta phải hiểu và đánh giá lại cho rõ ràng.  

Khi về đến Thăng Long, Huyền Trân lên núi Yên Tử trình diện vua cha là Phật Hoàng Trần Nhân Tông, rồi quy y đi tu, lấy pháp danh là Hương Tràng ni sư. Bà vừa tu hành vừa dạy dân dệt vải và làm thuốc cứu bệnh cho dân.

Tôi ước mong rằng người Việt Nam ta ai cũng có dịp đến viếng đền thờ Huyền Trân Công Chúa ở Huế để có dịp tận tường đọc kỹ văn bia và sử liệu chính thức đáng tin cậy để minh oan cho Công Chúa Huyền Trân và Lão Tướng Trần Khắc Chung.

Riêng tôi, sau lần có dịp đến viếng đền thờ và đọc cặn kẽ sử liệu, văn bia. Tôi đã thắp hương cúi đầu chân thành tạ lỗi với người xưa, vì mình đã lầm tưởng mấy chục năm qua chỉ vì hai chữ "tương truyền", oan cho một người phụ nữ đoan hạnh và một vị Lão tướng tài ba.

Hoàng Hương Trang

Saturday, August 26, 2023

HÊN XUI

Tác giả: Võ Tòng Đánh Mèo

"Két!!!... Rầm!!!" - bà giáo bóp kịch phanh nhưng con Lead của bà vẫn bị tông vào chiếc Mercedes S650 đang dừng bên đường. Cửa xe mở, một gã trong xe lao ra hùng hổ. Thế nhưng, khi thấy bà giáo, gã khựng lại ngạc nhiên, rồi chuyển giọng: "Ơ… Con chào cô!". 

Bà giáo còn đang ngác ngơ thì gã đó đã tiến tới nắm tay bà đầy tình cảm: 
"Cô không nhận ra con ạ? Con là Hên, lớp 7A3 ngày xưa, 6 năm liền đạt danh hiệu học sinh cá biệt, chuyên gia đội sổ của lớp nói riêng và của trường nói chung đây mà!". 

Bà giáo nhìn cậu học trò ngờ ngợ, rồi thốt lên: 
"A! Cô nhớ rồi! Nhưng sao 7 lớp mà lại chỉ có 6 năm cá biệt nhỉ?". 

"Dạ, năm lớp 7, chưa kịp bình bầu thì con bị đuổi học vì rình trộm nhà vệ sinh nữ ạ!". 

Như chợt nhớ ra, gã mở cốp xe, lấy ra hộp gì đó rất sang trọng, giọng lễ phép: 
"Cấp dưới biếu con chai rượu bổ, nhưng con nhiều rồi, uống không xuể, con tặng lại cô. Chúc cô 20.11 vui vẻ ạ!". 

Nói rồi, cậu học trò đội sổ vội vã phóng con Mercedes S650 đi, bảo là đi dự hội nghị cán bộ tỉnh, chuẩn bị cho cái dự án gần nghìn tỉ… 

Va chạm không nặng nhưng con Lead của bà giáo vẫn phải để lại ở tiệm cho thợ sửa, còn bà bắt xe ôm về. Tới nhà, bà giáo móc tiền ra trả, nhưng cậu xe ôm không lấy. Bà giáo còn đang ngác ngơ thì cậu xe ôm đã tiến tới nắm tay bà đầy tình cảm: 
"Cô không nhận ra con ạ? Con là Xui, lớp 7A3 ngày xưa, 6 năm liền đạt danh hiệu học sinh giỏi xuất sắc, chuyên gia thủ khoa của lớp nói riêng và của trường nói chung đây mà!". 

Bà giáo nhìn cậu học trò ngờ ngợ, rồi thốt lên: 
"A! Cô nhớ rồi! Nhưng sao 7 lớp mà lại chỉ có 6 năm xuất sắc nhỉ?". 

"Dạ, năm lớp 7, chưa kịp bình bầu thì con chuyển sang học trường chuyên ạ!". 

Như chợt nhớ ra, cậu xe ôm mở điện thoại nhấn nút "hoàn tất chuyến xe", giọng lễ phép: 
"Con tặng cô cuốc xe này ạ! Chúc cô 20.11 vui vẻ ạ!". 

Nói rồi, cậu học trò xuất sắc vội vã phóng con Wave 110 đi, bảo là đang có khách đặt cuốc xe gần trăm nghìn… 
- Võ Tòng Đánh Mèo

TRUYỆN XƯA CHIA BÒ Ở XỨ ẤN ĐỘ

Tác giả: Viet Hoa Vuong
(TRANG VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM (new))

Ngồi buồn, tôi kể  truyện xưa chia bò ở xứ Ấn Độ xa xôi.
Có cụ già người Ấn trong phút lâm chung.
Để lại di chúc chia gia tài cho 3 người con.
Di chúc ông viết có nội dung rằng.
Dặn các con chia nhau của cải một cách thuận hoà như sau:
"Gia tài cha tất cả là đàn bò 19 con.
Thằng Cả có công dựng nghiệp giúp cha.
Cha chia con Cả 1/2 đàn bò
Thằng Hai đã có vợ con.
Cha chia cho nó 1/4 đàn
Con Út độc thân, chịu thiệt một chút.
Cha chia  cho 1/5 đàn bò mà thôi!
Dặn là không được bán đàn bò.
Để qui thành bạc mặt  chia nhau tiền.
Nhớ rằng !không được xẻ thịt bò để chia.
Vì bò là vật linh thiên của Ấn Độ giáo từ xưa đến giờ".
Quả  là khó ngặt lắm thay !
Di chúc viết như vầy, con cái  biết chia gia tài làm sao???
Thế là họ cầu cứu ông  trưởng thôn .
Đó là ông lão thông thái nhất làng ở đây .
Ông cụ khi đọc xong di chúc của người cha.
Trầm tư một lát, ông chậm rãi nói với 3 người con:
"Nhà ta có dư 1 con bò.
Ta cho các ngươi mượn.
Để cho đủ đàn bò 20 con.
Thì đây theo di chúc:
Anh Cả được 1/2, thì cứ nhận 10 con.
Anh thứ Hai được chia 1/4 thì nhận 5 con.
Em Út chỉ được 1/5, thì sẽ nhận 4 con thôi .
Chia bò xong xuôi, còn dư lại 1 con.
Đó là con bò ta đã cho các ngươi mượn.
Nay các ngươi trả lại cho ta đem về nhà!"
Câu chuyện chia bò tưởng rằng nan giải bất phân.
Nhưng lại giải quyết rất đơn giản bởi người thông minh.
Có mấy ai có được cách giải bài toán lạ lùng.
Để chia cho chẳn đàn bò 19 con.
Thì phải mượn thêm cho đủ số 20 con bò.
Mới có thể chia theo tỷ lệ 1/2, 1/4, 1/5 chẳn chòi.
Sự đời nghĩ cũng vậy thôi!
Đôi khi ta nên nhớ cách hành xử nhân văn.
Khi muốn làm một phép tính Chia.
Cũng nên nhớ làm trước một phép tính Cộng.
Có thế thì mọi việc sẽ suôn sẻ, vẹn cả đôi đường Trước- Sau.
              Hoa Vương

Friday, August 25, 2023

SỢ VỢ – LỢI HAY HẠI

SỢ VỢ – LỢI HAY HẠI
Tác giả: Nguyễn Nhật Ánh

Phàm ở đời, không nhất thiết người chồng nào cũng sợ vợ. Nhưng thôi, chúng ta chẳng nhắc đến bọn người vô lương tâm, chỉ nhìn vợ bằng nửa con mắt đó làm gì. Ta chỉ nói đến chúng ta thôi, những người chồng luôn luôn nhìn đắm đuối vợ mình bằng hai con mắt đầy đủ. Và hai con mắt đó lúc nào cũng ánh lên vẻ tha thiết biết lỗi khi vợ cật vấn bằng một giọng nanh nọc: "Sao, đi đâu mà giờ này anh mới vác mặt về?". Tất nhiên là ta biết ta đi đâu . Những người chồng đứng đắn như chúng ta thì chẳng bao giờ về trễ vì một lý do bậy bạ . Rõ ràng là ta đi họp về muộn. Nhưng lẽ nào lại nói điều đó ra khi vợ mình đang giận. Nói ra, có nghĩa là ta thét vào mặt vợ: "Cô là kẻ chuyên nghi ngờ bậy bạ, không hề biết tí gì về công việc của tôi!". Ôi, lẽ nào ta lại nhẫn tâm đến như thế! Và nếu ta lỡ mồm nói ra, vợ ta cảm thấy bị mất mặt, nổi cơn lôi đình lên thì sao? Tai họa ai chịu? Thì còn ai nữa ngoài đôi tai sưng tấy lên vì bị véo của chúng ta, những người quen chịu trận. Vì vậy, lỡ rơi vào tình huống nan giải đó, tốt nhất là chúng ta im lặng ra vẻ biết lỗi . Chẳng có gì xấu hổ hết! Ông cha ta chẳng đã nói "Im lặng là vàng" sau bao năm quen nhẫn nại trước các bà, các mẹ của ta đó sao! Vâng, ta im lặng và âm thầm xuống bếp, lục cơm nguội ra ăn, bởi vì sẽ chẳng có cô vợ giàu nguyên tắc nào lại đợi cơm khi chồng về muộn. Vả lại, vợ ta đã đứng chờ ngồi đợi mỏi mòn con mắt vì ta rồi, lẽ nào ta còn hành hạ cô ta nữa . Những người chồng biết điều hãy cùng ta lặng lẽ xuống bếp xới cơm ăn một mình, vừa ăn vừa gặm nhấm khuyết điểm của mình. Ăn xong thì hãy lo mà rửa chén, không phải cái chén ta vừa ăn mà cả một đống chén ngỗn nghện từ sáng tới giờ. Gặp thằng chồng khốn nạn thì chắc chắn nó sẽ mặt nhăn mày nhó, nhưng ta thì không, thậm chí ta còn nở một nụ cười hạnh phúc. Bởi vì ta đã quen những thử thách này rồi. Từ hồi lấy nhau đến giờ, ngày nào cũng thế, vợ ta cứ sợ ta bớt yêu nàng nên luôn luôn tạo điều kiện cho ta chứng minh tình cảm trước sau như một của mình. Cái đống chén này là một ví dụ . Vợ ta cứ tưởng ta không biết nên thử thách ta hoài! Ta xắn gối ngồi xuống (bởi ta đã kịp thay đồ đâu!), tay cầm nùi giẻ lên mà trong lòng cứ tội nghiệp vợ: Ôi, nàng phải nhọc lòng thử thách ta biết bao, chứng tỏ nàng yêu ta lắm! Một người chồng mẫu mực phải biết cách rửa chén không gây tiếng động. Lúc này im lặng vẫn cứ còn là vàng! Bởi lúc ta ngồi rửa chén thì vợ ta đang ngủ. Nàng không đủ sắt đá để chứng kiến sự thử thách của mình và vì không nỡ nhìn chồng cặm cụi ngồi rửa một núi chén nên nàng đành phải đi ngủ. Và vì vợ ta đi ngủ, ta phải rửa chén bát êm thắm, lặng lẽ như một nghệ sĩ kịch câm chính cống. Dù sao thì trong chuyện này, tay nghề ta cũng cao lắm rồi . Bình tĩnh nhé, đừng sẩy tay! Ta dặn ta như thế, bởi vì một tiếng động vang lên vào lúc này có khác gì một quả bom nguyên tử nổ. Ai sẽ bảo vệ ta trước cơn thịnh nộ chính đáng của vợ? Không ai cả! Và cái tai tội nghiệp của ta một lần nữa lại chứng minh rằng "tai không chỉ dùng để nghe mà còn dùng để cho người khác trút sự phẫn nộ". Rửa chén bát, úp vào chạn xong, ta nhón gót đi lên nhà trên, nhón gót thay đồ, nhón gót đi … vệ sinh và cuối cùng nhón gót mò vào giường. Ô kìa, vợ ta đâu rồi ? Cô ta không có trong giường! Sau một thoáng bất ngờ, ta giận tím cả mặt. Không phải giận vì đêm nay ta lại ngủ một mình mà giận vì ta biết cô ta ở đâu rồi! Cô ta chơi bài tứ sắc ở nhà bên cạnh, các ông bạn đứng đắn của ta ạ! Đêm nào cũng thế, cô ta lỉnh đi chơi bài suốt đêm, có khi một, hai giờ sáng mới về. Nhiều đồ đạc trong nhà đã bắt đầu biến mất một cách kỳ quặc mà ta chưa dám hỏi . Hừ, sớm muộn gì ta cũng hỏi thôi (tất nhiên là muộn)! Sức khỏe cô ta thì sa sút thấy rõ (tai ta độ rày ít đau hơn). Cái hại của cờ bạc rành rành như thế mà cứ đâm đầu vào . Ta là chồng, ta biết phải làm gì trong lúc này chứ! Thế là ta xăm xăm bước qua nhà hàng xóm quyết kêu vợ ta về, mắng nhiếc cho một trận nên thân! Cái gì chứ việc này thì rõ ràng ta đúng. Ta ló đầu vào tìm kiếm. Kia, vợ ta kia rồi, cô ta đang xòe bài . Ta cố trấn tĩnh hắng giọng:

— Em ơi…!

— Anh làm cái trò gì đó?

Vợ ta lạnh lùng hỏi, đầu không quay lại . Tim ta tự dưng chơi điệu disco, mặc dù ta không thích nhạc trẻ. Đầu ta lỡ thò vào cửa, giờ không biết làm sao . Tự dưng rút ra mà không trả lời nghiêm chỉnh câu hỏi của vợ thì bất lịch sự quá. Mà để cái đầu trong nhà trong khi cái thân ngoài hiên thì coi không được. Tự nhiên, ta giận ta ghê, đâm đầu vô đây chi không biết! Vợ ta giải trí một chút mà ta cũng quấy rầy, thật là đồ vô lương tâm! Cuối cùng, ta cũng nghĩ ra được một câu đáng điểm mười:

— Anh tính qua hỏi em cần tiền không, anh đưa thêm!

Tất nhiên là vợ ta không từ chối, sợ ta buồn. Còn ta thì dùng mấy trăm bạc mà chuộc được tính mạng, kể cũng hên! Thế là vợ ta ngồi thức bên đó, ta nằm thức bên đây. Cách nhau một bước, xa nhau nghìn trùng. Chuyện đó, đến nay vẫn còn! Ta nhờ tài học vấn uyên bác nên sợ vợ cũng có dựa trên cơ sở lý luận, nay muốn tìm người trao đổi kinh nghiệm hầu nâng lên thành một học thuyết triết học.

Ta bắt chước Lỗ Tấn: "Liếc mắt coi khinh nghìn lực sĩ. Cúi đầu làm ngựa cho vợ ta".

Lỗ Tấn nói là "trẻ con" nhưng không có "vợ ta" làm sao có "trẻ con"? Ta sợ vợ ta chứ có sợ vợ ai đâu mà xấu! Cũng từ Lỗ Tấn ta suy ra: "Vợ nhờ chồng sợ mà thành hùm" (từ câu "Rừng nhờ người đi mà thành đường"). Nghe chí lý thay! Ta vốn người hào kiệt, coi khinh nghìn lực sĩ, bình sinh chưa biết sợ ai, nhưng sở học lộn xộn nhớ lầm câu "nếu không có cái mình thích thì hãy thích cái mình có" thành câu "nếu không có cái mình sợ thì hãy sợ cái mình có". Gia tài ta chẳng có gì ngoài vợ nên từ đó đâm ra sợ vợ mà thành tật. Nay, tính can vợ bỏ bài bạc hoài mà không được, ta lại ngẫm ra "nếu cứ sợ cái không đáng sợ ắt sẽ hại cái không đáng hại". Ôi, phải chăng vì yêu vợ mà ta hại vợ? Hỡi các ông chồng đứng đắn giống như ta, hãy trả lời! Sợ vợ, lợi hay hại ?

Nguyễn Nhật Ánh – 1982 

Thursday, August 24, 2023

Hai Trầu - TÔI ĐI MÓT SÁCH

TÔI ĐI MÓT SÁCH
Tác giả: Hai Trầu

Hồi sáu bảy chục năm về trước, lúc dân ruộng quê tôi còn làm lúa mùa, mỗi lần tới những ngày cắt lúa tháng Giêng, tháng Hai âm lịch, rồi gom lúa về sân, tụi nhỏ chúng tôi những ngày xa xưa ấy thường hay bưng một cái thúng dê ra đồng đi theo các cộ trâu, cộ bò người ta đang gom lúa; lúc bấy giờ tụi tôi mới lẻo đẻo theo sau các cộ lúa ấy để lượm những bông lúa bị rơi rớt dọc đường hoặc bị sót khi người ta gom lúa; và được gọi là đi mót lúa. Vậy mà mỗi ngày cũng được đầy một thúng dê có khi vun cơi ngọn luôn! Khi đem lúa về nhà, thật tình ra, đứa nào cũng sợ tía má rầy vì dan nắng suốt ngày, không lo học bài mà cứ mê đi mót lúa, nên tụi nhỏ ưa bưng thúng lúa vừa mót được để gần mấy chỗ hơi khuất như cối xay lúa, hoặc cối giả gạo; rồi lần hồi lúa mót được hơi nhiều mới đem ra sau vườn trải chiếc đệm và lấy hai chân đạp mớ bông lúa ấy để lúa rụng hột rồi gom góp có khi mãn mùa lúa đâu được năm ba giạ lúa hột như vậy. Vui lắm!

Hồi đời trước, trẻ nhỏ ở vườn có cái vui nữa là hay bắt hôi. Bắt hôi là lúc các chủ đìa, chủ mương tát đìa, tát mương làm lóng bắt cá; sắp nhỏ ngồi trên bờ chờ, khi nào chủ đìa tát đìa tát mương nước cạn khô hết, và người ta mới xuống căng hàng ngang nhiều người cùng bắt cá một lượt; lúc bấy giờ, có lịnh của chủ đìa hoặc chủ mương cho phép mình xuống bắt cá sót dưới bùn thì tụi tôi mới xuống bắt cá sót ấy; đây cũng là một hình thức đi mót cá và dân quê gọi bắt hôi là vậy! Rồi có những lúc tới mùa nhổ kiệu hoặc đào khoai lang lấy củ, thì khi trời mưa xuống những củ kiệu, củ khoai còn sót được mưa rửa sạch và nằm phơi mình trên mặt đất lúc bấy giờ mình đi lượm những củ kiệu, những củ khoai lang còn sót trong lớp đất mới đào đó; dân quê gọi là đi mót kiệu, mót khoai lang. Nói tóm lại, qua vài dẫn chứng như vậy thì như bạn thấy, cái gì tới mùa mà người ta làm sót, rơi rớt chỗ này chỗ kia mà mình lượm được thì gọi chung là mót vậy!

Rồi bạn sẽ hỏi tôi, sao lại đi mót sách? Vì lúa thóc là hột ngọc của Trời, rồi cá, rồi khoai, rồi kiệu là những vật phẩm mà tạo hóa ban tặng cho con người dùng làm thức ăn cho con người và nhờ vậy con người có miếng ăn mà sống. Đó là về thực tế cần cho đời sống thể chất; còn sách là những tinh túy của các tác giả sau nhiều năm tháng suy nghĩ, nghiềm ngẫm rồi ngồi xuống viết ra cho đời những trang văn bổ ích nuôi dưỡng tinh thần của biết bao người qua nhiều đời, nhiều thời; vậy sách cũng đâu thua gì lúa về phương diện tinh thần, nên rất cần yếu!

Ngoài ra, sở dĩ tôi nêu ý nghĩ đi mót sách vì sách mới thì còn cách này hoặc cách khác mình muốn tìm thì cũng còn có lúc dễ tìm như mình có thể mua sách được; nhưng với sách xưa, sách của khoảng sáu bảy chục năm về trước, có khi lâu hơn, rồi trải qua biết bao thăng trầm dời đổi của dòng đời thì có lúc mình muốn tìm muốn kiếm lại những quyển sách ấy, kể ra rất là khó! Chính vì vậy mà tôi lò mò đi lục tìm lại sách vở cũ cũng giống như mình đi mót lúa, mót khoai, mót kiệu, mót cá… vậy và tôi đã gom được vài ba tác phẩm của vài tác giả mà tôi có duyên may đã mót được và rất vui nên xin phép được đem ra đây để khoe cùng bạn chơi cho vui!

Trước tiên, tôi đi mót những trang trong cuốn Minh Tâm Bửu Giám của Tía tôi để lại. Hồi đó, vào thời loạn lạc giặc giã lúc Tía Má tôi bồng chống đàn con thơ dại bỏ nhà tản cư chạy giặc thì nhà ông nội tôi bị đốt cháy, mọi thứ đều bị cháy ra tro hết kể cả gạch ngói, lúc bấy giờ căn nhà của ông tôi chỉ còn sót lại một đống gạch vụn, may thay Tía tôi còn giữ được cuốn Minh Tâm Bửu Giám với gáy sách được kẹp bằng hai miếng tre chuốt mỏng. Đối với tôi đây là cuốn sách gối đầu giường, lúc nào cũng mở ra xem lại, ngoài ý nghĩa về các lời dạy trong sách mà ở đó còn là cả một nếp giáo dục gia đình từ hồi ông nội tôi dạy chữ Nho rồi tới đời Tía Má tồi lưu truyền lại; dĩ nhiên với thời buổi ngày nay, tức thời buổi bây giờ, có thể nhiều người cho rằng nền giáo dục xưa giờ đã quá cũ, quá lỗi thời rồi nhưng tôi vẫn giữ những trang sách rách ấy và không cách gì đành lòng vứt bỏ đi được!



Một vài trang trong Minh Tâm Bửu Giám, sách của Tía tôi với nẹp tre rất bền, có tuổi đời trên 100 năm, hiện tôi còn giữ được.

Thư đến, là bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư với những bài tập đọc, những bài học thuộc lòng nói lên tình gia đình, lòng từ tâm …, tôi như lúc nào cũng mê và cũng nhớ, nên bộ sách này tôi mót được và giữ hoài cho tới bây giờ!


Một trang trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư của Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận soạn.

Hồi đó lúc còn nhỏ cũng như bây giờ khi tuổi đời đã xế chiều, tôi có cái vui nữa là ưa mót tự điển và từ điển. Theo bộ Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, nhà Khai Trí xuất bản, năm 1970, phân biệt hai chữ Tự điển và Từ điển như sau:
"Tự điển (dt): Loại sách dẫn từ gốc phát sinh từng chữ và giải thích": Tự điển khó soạn hơn từ điển gấp mấy lần.// "nghĩa mới: Loại sách tập trung những tiếng nói của một ngôn ngữ sắp xếp thế nào cho dễ tìm và giải nghĩa bằng ngôn ngữ đó hoặc dịch ra một ngôn ngữ khác. Khi đọc sách, gặp chữ khó hiểu, nên tra tự điển (Dictionnaire).
"Từ điển (dt):Loại sách giải nghĩa từng tiếng một, tiếng kép hay lời nói quen dùng: Từ điển Việt Nam; tra từ điển // (nghĩa mới): Loại tự điển gồm các từ ngữ: Văn liệu từ điển, Tầm nguyên từ điển, Thành ngữ từ điển (cũng có thể nói Tự điển Văn liệu, Tự điển Tầm nguyên, Tự điển Thành ngữ) [Dictionnaire des termes et expressions]

Tôi còn nhớ, cuốn Tự Điển xưa nhứt mà tôi còn giữ là cuốn Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Hùinh Tịnh Paulus Của xuất bản năm 1895 do nhà Imprimerie Rey, Curiol & Cie, Sài Gòn; sau nhà xuất bản Văn Hữu số 43/1 Chi Lăng, Gia Định tái bản ngày 20-9-1974, dày 596 trang.

Thêm nữa tôi cũng mót được bộ Việt Nam Tân Từ Điển của Thanh Nghị do nhà xuất bản Thời Thế , Sài Gòn, xuất bản năm 1951. Bộ từ điển này là phần thưởng "Ưu hạng" của bà xã tôi khi lãnh thưởng hồi còn học lớp Đệ Thất năm 1957 ở Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Bộ tự điển này gồm 2 quyển, nhưng in chung, dày 1669 trang và có cái hay là mỗi chữ đều có chua thêm phần tiếng Pháp và cuối sách có phần Phụ Lục liệt kê tất cả các chữ Pháp theo thứ tự ABC và số trang để giúp cho việc tìm nghĩa của chữ Pháp rất tiện lợi. 
Tiếp nữa, tôi mót được bộ Việt Nam Tự Điển, gồm 2 quyển Thượng và Hạ, dày 1865 trang, của giáo sư Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ do nhà Khai Trí, Sài Gòn, xuất bản năm 1970. Điểm đặc biệt của bộ tự điển này là cuối mỗi quyển Thượng & Hạ đều có thêm phần Phụ Lục gồm hai phần:"Tục Ngữ, Thành Ngữ" và phần "Điển Tích, Nhân Danh, Địa Danh". 

1/ Quyển Thượng (từ chữ A tới chữ L), phần Tục Ngữ, Thành Ngữ và Điển Tích: 214 trang; phần Nhân Danh, Địa Danh: 135 trang. 
2/ Quyển Hạ (từ chữ M tới chữ X), phần Tục Ngữ, Thành Ngữ và Điển Tích: 162 trang; phần Nhân Danh, Địa Danh: 137 trang. 
Nếu kể luôn phần phụ lục, bộ tự điển này dày tổng cộng 2.514 trang. Và qua nhiều năm tra từ điển và tự điển, thì tôi thấy đây là bộ Tự Điển đáng tin cậy nhứt và lúc nào chữ nào mà tôi không biết hoặc nghi ngờ, tôi đều tra ở bộ tự điển này.

Lần hồi tôi cũng mót thêm được trọn bộ Thành-Ngữ Điển-Tích Danh-Nhân Từ-Điển (gồm 2 quyển) của giáo sư Trịnh Vân Thanh, nhà xuất bản Hồn Thiêng, Sài Gòn,1966, dày 1474 trang. Rồi tôi cũng mót được bộ Tự-Điển Thành-Ngữ Điển-Tích của Diên Hương, in kỳ nhứt 1949, kỳ nhì 1954, Zieleks Publihing Co. tái bản kỳ ba, Houston, 1981, sách dày 503 trang.

Về tự điển chữ Hán, tôi mót được bộ Hán-Việt Tự-Điển của Thiều-Chửu, bản in năm 1990, gồm ba phần:
1/ Cách tra chữ đánh số La mã từ số V tới số XV: Mục tra chữ.
2/ Phần bị yếu: gồm tất cả các chữ, 817 trang.
3/ Phần Mục Lục (tra theo vần A.B.C… có chữ Hán đối chiếu, gồm 92 trang.) 

Lại mót thêm bộ Hán-Việt Tự-Điển của Nguyễn Văn Khôn, Sài Gòn, 1960; gồm 10.000 đơn tự và 40.000 từ ngữ, sách dày 1161 trang; Đại Nam tái bản năm 1987. Theo lời "Tự-Ngôn", soạn giả viết: "Để biên soạn quyển sách này, tác giả đã phải tham khảo các cuốn Khang-Hy tự-điển, Từ-Hải, Từ-Nguyên, Trung-Quốc đại từ-điển, Tiêu chuẩn quốc âm đại tự-điển, Vương-Vân-Ngũ đại từ điển, Anh-Hán đại từ điển của Hoàng-Sĩ-Phục, v.v…"(Sài Gòn, ngày 30 tháng 6 năm 1960).

Tôi cũng mót được bộ Hán Việt Tự Điển của Đào Duy Anh, sách dày 828 trang. Nhắc tới soạn giả Đào Duy Anh, không thể không nhắc đến bộ Từ Điển Truyện Kiều; theo "Lời đầu sách", soạn giả cho biết bản thảo quyển Từ Điển Truyện Kiều viết xong tháng 11 năm 1965 nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Nguyễn Du và in vào tháng 12 năm 1971, sách gồm hai phần: phần Từ Điển dày 449 trang và phần Phụ Lục: Văn bản Truyện Kiều do Đào Duy Anh khảo đính dày 104 trang.
Ngoài ra, tôi cũng mót được các bộ từ điển tầm nguyên của soạn giả Bửu Kế như bộ Tầm Nguyên Từ Điển (Cổ Văn Học Từ Ngữ Tầm Nguyên), nhà xuất bản Thanh Niên, 2005, sách dày 734 trang; và bộ Từ Điển Hán Việt Từ Nguyên, nhà xuất bản Thuận Hóa, 1999, sách dày 2.812 trang.

Có lẽ cuốn tự điển La Rousse Classique Illustré, của nhà xuất bản Librairie Larousse, Paris, bản in lần thứ 10, năm 1950 là cuốn sách khá xưa trong số các sách mà tôi còn lưu giữ được. [Đặc biệt, cuốn tự điển này tôi có được do anh Dương Văn Chơn, Trưởng Ty Thanh Niên Châu Đốc hồi mấy năm 1963-1965, cháu ruột gọi thầy Dương Văn Út (Tân Châu), bằng chú, tặng năm 1965.)(giá tiền hồi đó ghi là 165$]

Ngoài ra, sau này tôi còn gom góp thêm được nhiều bộ tự điển & từ điển nữa như các bộ Từ Điển Nhân Danh, Địa Danh & Tác Phẩm Văn Học Nghệ Thuật Trung Quốc (2 quyển I & II) dày 2.005 trang; và cuốn Từ Điển Hán Việt Thành Ngữ Cố Sự (dày 554 trang khổ lớn); cả hai bộ từ điển này do bác sĩ Hoàng Xuân Chỉnh biên soạn. Rồi có thêm các bộ tự điển về Văn Học Quốc Âm, của Nguyễn Thạch Giang, dày 1.595 trang; về Từ Ngữ Nam Bộ của Huỳnh Công Tín, dày 1.392 trang; từ điển về Tục Ngữ và Thành Ngữ; về sinh ngữ tôi mót được rất nhiều cuốn như Từ Điển Anh Việt, Từ Điển Việt Anh, Từ Điển Pháp Anh, Từ Điển Anh Pháp…

Ngoài ra còn có bộ Từ Điển Phật Học Hán Việt của nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, sách dày 1.572 trang. Đặc biệt, tôi cũng giữ được quyển Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn, đây được coi như bộ tự điển bách khoa Việt Nam.

Ngoài ra , tôi cũng giữ được bộ Cây Cỏ Miền Nam của giáo sư Phạm Hoàng Hộ (2 quyển), Quyển I dày 1.115 trang; Quyển II dày1.139 trang, do Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu (Sài Gòn) ấn hành quyển I năm 1970, quyển II năm 1972. Lúc bấy giờ, những năm 1970-1972, bộ sách này đúng là bộ từ điển đầu tiên về Cây Cỏ Miền Nam rất khó có bộ sách nào qua mặt .

Với bộ Tự Điển Bách Khoa Encyclopaedia Britannica bản in 1973-1974 và cuốn Book Of The Year 1977(Events of 1976), đúng là bộ sách rất quý mà tôi có duyên mót được. Số là vào một hôm nhằm ngày trời mưa lăm răm, tôi đi bộ qua vài con đường gần nhà vùng Randoph, Massachusetts, cách Boston chừng 30 phút lái xe, lúc bấy giờ tôi ở vùng Randoph này, thì gặp một đống sách mà chủ nhà người Mỹ để trong các thùng giấy carton không dán kín và bỏ bên lề đường với tấm giấy ghi bằng tiếng: "Làm ơn lấy giùm tôi, miễn phí!" và tôi ghé lại coi đống sách ấy là sách gì? Thì ra, đây là bộ Tự Điển Bách Khoa Encyclopaedia Britannica bản in 1973-1974 và cuốn Book Of The Year 1977(Events of 1976), còn rất mới và tôi quay về nhà lấy xe tới, hè hụi bưng sách bỏ lên xe và chở sách về nhà. 

Sau này được biết, ở Mỹ có cái vui là ông chủ nhà này dời nhà đến ở một nơi khác và bộ sách này gồm 30 cuốn lại thêm cuốn Book of year 1977 nữa nên khá nặng, nên họ đem ra đường bỏ và mình lượm đem về. Về đến nhà, tôi mới mang sách vô nhà xe và hong gió cho sách khô ráo vì có một vài trang bị ẩm do mưa lăm răm hoặc nằm qua đêm ngoài trời nên sương xuống sách bị ướt. Qua coi lại bộ sách này xuất bản năm 1976 thì rất cũ đối với chủ của nó và kể cả của nhiều người nhưng với tôi đây là sách còn rất mới mà nhiều lúc nằm mơ cũng không thể mua nổi vì giá rất mắt tiền! (Theo tự điển Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ "mắt" viết với "t" chứ hổng phải "mắc"). Và, như bạn biết, bộ tự điển này là cái túi khôn của loài người gói gọn trong mấy chục ngàn trang sách ấy mà cả đời mình không cách gì học hỏi cho cùng tận được! Tôi mê nó lắm dù chữ nghĩa tiếng Anh chưa đầy lá mít và giữ nó như một kỷ niệm của những ngày đi mót sách.

Nhắc về chánh tả qua cách tôi dùng từ điển & tự điển, tôi có kể với nhà văn Song Thao nghe qua trong bài "Lai rai với nhà văn Song Thao" hồi tháng 9.2020, tôi viết:

"Thỉnh thoảng tôi có ghi lai rai chơi về ba cái vụ mùa màng cây trái ở miền quê tôi, và vì là dân quê nên tôi rất dở và rất sợ chánh tả; nên lúc nào cũng chất đầy một đống tự điển, từ điển chỗ ngồi viết, chữ nào mình nghi nghi là mở tự điển ra coi lại liền hà; có khi phải mở ba bốn bộ tự điển cùng một lúc thì tôi mới dám viết xuống; vậy mà rồi có lúc cũng bị lỗi nhe anh Song Thao! Đặc biệt, chuyện tôi kể về việc làm ruộng thường là chuyện xa xưa lâu rồi, nên tôi ưa dùng các bộ tự điển xuất bản từ hồi rất xưa như bộ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Paulus Của (1895), bộ Việt Nam Tân Từ Điển của Thanh Nghị (nhà xuất bản Thời Thế, Sài Gòn, 1951), bộ Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ (nhà Khai Trí, Sài Gòn, 1970) và nhiều bộ tự điển khác có tới cả chục bộ. 
Tôi theo qui tắc tự đặt ra là: "Cứ hai hoặc ba bộ tự điển của ba tác giả khác nhau giải nghĩa về một chữ mà cách viết chữ đó giống nhau là tôi tin chữ đó viết trúng vậy!"
Thành ra, nếu trong các chữ nào tôi dùng trong các bài tôi viết là tôi đã lật nhiều tự điển lắm mới dám viết xuống; nếu có lỗi là do mình đánh máy trật chứ hổng phải tự điển trật!" 

Ngoài các loại tự điển & từ điển, tôi còn mót được một số sách của các tác giả mà tôi đọc được như hơi xưa xưa có các học giả Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Phan Bội Châu, Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Linh mục Thanh Lãng, giáo sư Nguyễn Đăng Thục, sử gia Phạm Văn Sơn, giáo sư Phạm Thế Ngũ, học giả Nguyễn Hiến Lê, học giả Vương Hồng Sển…; còn gần gần như có các tác phẩm của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, , nhà văn Vũ Thất, nhà văn Khiêm Cung-Dương Văn Chung, Ngô Thế Vinh, Võ Phiến, Lâm Chương, Nguyễn Đình Toàn, Trần Doãn Nho, Song Thao, Luân Hoán, Hoàng Xuân Sơn, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Vy Khanh, Trần Trung Đạo, Nguyễn Xuân Thiệp, Tô Thùy Yên, Phan Xuân Sinh, Lữ Kiều-Thân Trọng Minh,Trần Gia Phụng, Ngu Yên, Lâm Hảo Dũng, Trần Phù Thế, Đức Phổ, Hoa Văn, Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Phạm Cây Trăm, Dư Mỹ, Nguyễn Thị Lộc Tưởng, Trần Bang Thạch, Lê Cần Thơ, Đặng Kim Côn, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Hàn Chung, Nguyễn Thị Khánh Minh,Nguyễn Hiền Đức và nhiều, nhiều lắm, hổng kể xiết…!

Đặc biệt, theo như tài liệu trên các sách của Nguyễn Hiến Lê đã xuất bản tổng cộng gần 120 tác phẩm, và tôi mót được 75 cuốn trong tổng số này, những cuốn chủ yếu trong các chủ đề về "Luyện văn", "Học làm người" và "Triết học Trung hoa", "Cổ văn Trung Quốc", Du ký, Hồi ký... 

Đặc biệt, các sách của học giả Vương Hồng Sển viết về thú chơi sách, thú đọc truyện Tàu và viết về miệt Hậu Giang mà tôi lò mò mót được cũng khá bộn!

Mấy năm gần đây tôi cũng hay đi mót sách của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, và tôi hiện có được khoảng 25 cuốn trong số 56 tác phẩm của tác giả, đặc biệt là các loại sách du ký, ghi chép lang thang và các loại sách về sức khỏe, về tuổi già, về an lạc và về Phật học.

Thưa bạn, 

Mót sách coi vậy mà rất cực và mất rất nhiều thời giờ, có khi phải trải qua thời gian khá lâu! Với số sách ít ỏi mà tôi vừa khoe với các bạn, tôi phải mày mò rất lâu có khi bắt đầu từ hồi còn học lớp nhứt, rồi lớp Đệ Thất, Đệ Lục cho dĩ chí tới hôm nay mà việc mót sách cũng còn đang tiếp tục; tức là thời gian dài có tới sáu bảy chục năm có hơn!

Như bạn biết tôi là đứa trẻ nhỏ lớn lên ở nhà quê, nhà lại nghèo nên học hành hổng được nhiều, nên sách vở lúc nào có dịp thuận tiện là tôi mót sách để đọc và học hỏi thêm. Hồi đó, ở nhà quê ít ai có tủ sách, vì dân quê chuyên làm ruộng thì làm gì có tủ sách đã đành; mà ngay như ở thành thị, đa phần là dân buôn bán, có người cho con học hành thì đôi lúc có sách trong nhà nhưng nói có tủ sách thì cũng ít người có; còn công chức thì việc chính của nghề cạo giấy là việc hành chánh, công văn giấy tờ, nên trong các nhà của giới công chức này nếu có tủ sách thì sách chắc cũng hổng được nhiều và chủ yếu là sách hồi các viên chức này lúc còn đi học, may mắn lắm mới còn sót lại một số sách; nhưng tủ sách đúng nghĩa của nó, chắc sách trong các nhà quyền thế này cũng tương đối thôi chứ hổng phải nhà nào cũng có tủ sách và có sách đầy đủ được!

Ở làng tôi, theo chỗ người lớn kể lại thì chỉ có chú Năm Ngữ là có tủ sách với các bộ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, các báo Nam Phong, báo Lục Tỉnh Tân Văn và vài quyển sách chữ Nho, cùng truyện Tàu; còn lớp sau này thế hệ lớp tụi tôi thì mỗi nhà đều có vài quyển sách và tập vở học hồi các lớp sơ học, tiểu học, trung học đều để trong các tủ đựng chén dĩa ráo trọi…, mà hồi đó gọi là tủ "garde manger", tức tủ đựng thức ăn để tránh ruồi, chứ không sang trọng như loại tủ "buffet", loại tủ đựng ly tách, bình trà. Mấy năm còn nhỏ, hồi thế hệ của anh tôi, rồi tới thế hệ tôi và đến thế hệ đứa em út của tôi, nhà tôi có được một số sách gom góp nho nhỏ như vậy. 

Nhưng tới lúc thắt ngặt sau năm 1975, mấy đứa cháu tôi còn nhỏ, vô tư lự, bèn lấy sách và tập vở của mấy cậu đem ra chợ cân kí lô cũng bộn; rồi còn cái nạn ở vườn, nhà cất trên nền vườn cao cho nước khỏi ngập nên dễ bị mối lên ăn cây gỗ sườn nhà và ăn luôn sách vở học trò gần như muốn nhầu nát hết. May sao, tụi nhỏ còn để lại được mấy cuốn tự điển lớn và dày và mấy cuốn sách bìa cứng hơi dày như cuốn Nhà Văn Hiện Đại nhà xuất bản Thăng Long (Sài Gòn) ấn hành năm tháng 5.1960 và cuốn Tự Do Đầu Tiên và Cuối Cùng của Krisnamurti, Phạm Công Thiện dịch, do nhà An Tiêm xuất bản năm lần thứ nhứt, 1968; cả hai quyển này tôi mót ở nhà sách Vinh Ba, đường Phan Đình Phùng, Long Xuyên, hồi năm 1968.

Mót sách cực như vậy nên mình phải đọc sách mà mình đã mót được chứ hông thôi lại "uổng công xúc tép nuôi cò, gom cho sách mục, mối bò mối ăn"! Thế là tôi mày mò đọc một lần, rồi quyển nào mình thích thì đọc lại, đọc tới đọc lui vài ba lần, vừa để giải trí, mà cũng vừa để học hỏi nữa. Trong khi đọc sách tôi thích ngồi đọc (chứ hổng thich nằm vì nằm dễ buồn ngủ) với cây viết chì trên tay và ghi ghi chép chép bên lề các trang sách chỗ nào mình thấy thích, thấy hay, rồi để đó; vài ngày sau hoặc một lúc rất lâu sau, lại lấy sách ra đọc lại và có thể có ý mới về đoạn sách đã đọc đó rồi ghi thêm cảm tưởng. Vì thế sách của tôi quyển nào cũng đầy vết viết chì, nhưng chắc chắn là không bao giờ tôi bẻ làm đôi quyển sách để đọc vì làm như vậy gáy sách sẽ bị gãy, uổng lắm và mất vui! Thành ra, bạn thấy sách tôi dù gom góp rất lâu nhưng bìa còn rất mới mà trong ruột sách thì nguệch ngoạc, loằng ngoằng, xiên xẹo…, nếu người khác có dịp mà gặp được chắc lấy làm khó chịu! Vậy mà vui lắm!

Từ ghi vài cảm tưởng sau khi đọc xong một quyển sách nhằm mục đích chính là giải trí và trị được chứng bịnh kém trí nhớ, ưa quên trước quên sau do sau nhiều năm phá rừng, đào kinh, làm ruộng nên đầu óc tôi luôn luôn bị căng thẳng đến độ nhiều lúc nằm chiêm bao thấy toàn là chuyện cực nhọc và sách vở cũng theo thời gian trả hết lại cho thầy hồi còn đi học; lúc bấy giờ trong đầu óc gần như hổng còn một chữ nào chứ nói gì "chưa đầy lá mít" như bà con ưa ví von như vậy! Thế rồi, từ những ghi chép cảm tưởng ấy, tôi gom góp lại cũng hơi bộn bộn và mày mò tìm mót sách thêm và đọc thêm, rồi ghi thêm như vậy mà cái bịnh kém trí nhớ dần dần bớt được ít nhiều! Vui lắm! 

Từ đó tôi rút ra bài học là mình cứ căm cụi mót sách, cặm cụi đọc sách và căm cụi ghi chép cảm tưởng, rồi cặm cụi gom góp những ghi chép ấy lại và sau cùng bạn có một xấp thiệt là dày những bài học mà bạn rút ra được từ những trang sách mà bạn đã mày mò gom mót từ sáu bảy chục năm ấy và tự bạn, bạn sẽ tìm cho bạn một niềm vui nho nhỏ mà nhiều lúc nếu bạn có tiền muôn bạc vạn chưa chắc gì bạn mua được niềm vui ấy!

Mình mót sách là mót cho mình; mình đọc sách là đọc cho mình; và mình ghi cảm tưởng sau khi đọc xong một quyển sách cũng là công việc mình làm cho chính mình chứ hổng phải mình làm cho ai khác, kể cả các tác giả viết nên những quyển sách ấy! Do vậy, mót sách vui lắm và bổ ích dữ lắm! Tôi nói thiệt đó và bạn nên tin tôi về điều này đi, nhe bạn!

Hai Trầu
Houston, ngày 30.11.2020

Saturday, August 19, 2023

CÂU CHUYỆN PHÍA SAU CỦA TÔ PHỞ…! (Bài sưu tầm)

(Bài sưu tầm)
Một người phụ nữ bước vào một quán phở và hỏi chị chủ quán:
-Chị ơi, ở đây 1 tô phở bao nhiêu tiền...?
Chủ quán trả lời:
-30 ngàn chị ơi...!
Sau khi lục trong túi ra đếm chỉ còn vỏn vẹn 15 ngàn, người phụ nữ buồn rầu, ngại ngùng nói:
-Tôi còn có 15 ngàn, chị bán cho tôi tô phở không có thịt được không ạ...?
-Không chị ơi, em không bán tô phở 15 ngàn.
Ngay lúc đó có người đàn ông trong quán nghe vậy đến nói:
-Chị bán tồ phở đầy đủ cho chị ấy đi, tôi sẽ trả tiền cho...!
Người phụ nữ cám ơn ông khách, bưng tô phở đưa cậu con trai, cậu con trai nhìn tô phở, vừa nếm 1 miếng thì mắng mẹ:
-Tô phở nhạt nhẽo thế này mà mẹ cũng đưa con ăn sao?
Nói xong cậu vứt đôi đũa rồi bỏ chạy ra ngoài ngồi.
Người khách nọ thấy vậy liền đi ra gặp cậu rồi nói:
-Cậu còn là con người nữa không, mẹ cậu vất vả, thậm chí không đủ tiền mua tô phở cho cậu, vậy mà cậu đối xử với bà ấy như vậy là sao?
Cậu con trai cúi đầu nghẹn ngào nói:
-Dạ, em thương mẹ em lắm, mẹ em vất vả nuôi em khôn lớn, ăn học đàng hoàng, bao nhiêu khổ cực mẹ em gánh hết, thậm chí ngày hôm nay mừng em tốt nghiệp đại học, mẹ cũng nhường cho em, nên em làm như vậy để mẹ em ăn phở, anh ơi...!
Người đàn ông nghe vậy, nở 1 nụ cười:
- Anh xin lỗi đã trách lầm em, đây anh cho ít tiền, tuy không nhiều nhưng đủ hai mẹ con ăn 1 bữa thật ngon mừng ngày em tốt nghiệp đại học, và ngày mai, nếu chưa có chỗ nào nhận thì đến công ty của anh làm việc, đây là danh thiếp của anh.
Cậu nghe xong cúi đầu cám ơn người đàn ông nọ, rồi vào quán ngồi dựa vào người mẹ mà nước mắt 2 mẹ con không ngừng rơi...!

Monday, August 14, 2023

HOA CẨM CHƯỚNG NỞ TRONG NHÀ- Nguyễn Thị Thanh Dương

HOA CẨM CHƯỚNG NỞ TRONG NHÀ.
Nguyễn Thị Thanh Dương.
( Jan. 09, 2016)

"Hoa Cẩm Chướng" nở trong nhà
Chướng tai gai mắt tuổi già dở hơi.

            ***********

Vợ chồng chị Bông đến nhà chị Phú chơi nhân dịp họ dọn vào nhà mới, họ bán căn nhà cũ to rộng hơn 3,000 Sqf. để mua căn nhà mới  1,800 Sqf. với 3 phòng ngủ gọn gàng vừa đủ cho hai vợ chồng vì các con đã trưởng thành và ở nơi khác.

Chị Phú hớn hở khi mở cửa cho bạn:

–        Mời mãi mà hôm nay anh chị mới đến, ở cùng thành phố chứ cách trở núi non gì….

Trong khi anh Phú tiếp chuyện anh Bông thì chị Phú đưa chị Bông đi xem nhà, nhà Texas rẻ nên nhiều người Việt có điều kiện đều trả tiền mặt và mua nhà mới dễ dàng. Anh chị Phú cũng thế, căn nhà của builder D-R- Horton xây kiểu cọ khá sang và đẹp gía chỉ khoảng 100 đồng mỗi Sqf..

–        Đây là phòng ngủ .. cuả ông Phú.

Thì ra vợ chồng nhà này ngủ riêng. Chị Bông nghĩ thầm trong khi chị Phú tiếp nửa đùa nửa thật:

–        Bàn computer là thế giới riêng cuả ông ấy, nếu tôi mà bước vào đây khi ông ấy đang ngồi computer thì tôi…là nhân vật thứ ba thừa đấy chị.. Trong ánh mắt khó chịu của ông Phú như nói rằng: "Bà chẳng nghĩa lý gì trong lúc này".

Sang phòng bên chị Phú hớn hở tiếp:

–        Và đây là phòng ngủ của tôi, tôi muốn xem ti vi đến bất cứ giờ nào, tôi muốn  treo hình ảnh, bày biện gì thì tha hồ, không làm … chướng tai gai mắt ông  ấy. Bởi thế vợ chồng già ngủ riêng giường, riêng phòng là sung sướng nhất

Hai gia đình quá thân nhau nên chị Bông không ngại ngần nói:

–        Thế mà hai ông bà ra ngoài vẫn sánh đôi chung bóng tưởng như nửa bước không rời nhau cơ đấy.

–        Thì ai chẳng cần bề ngoài, đi chợ, đi nhà thờ hay đi bất cứ đâu đều chung đôi đã đành mà…đến chết vẫn chung đôi luôn.

Chị Bông hết hồn và ngạc nhiên:

–        Sao? Hai ông bà định…chết chung một ngày à?

Chị Phú bật cười:

–        Có vợ chồng già nào còn lụy tình nhau đến cuối đời thế chứ . Nghĩa trang "Mây trời xanh" trong thành phố này đang quảng cáo bán những phần đất giá rẻ thế là hai vợ chồng mình bèn đến xem và mua ngay 2 mộ phần song song nằm cạnh nhau, đã xây bia mộ hình ảnh sẵn sàng rồi , ai chết trước thì vào nằm trước và ghi thêm ngày từ trần vào bia mộ đợi người đến sau. Thế là sớm muộn gì vợ chồng cũng chung đôi trong giấc ngủ cuối cùng. Trông vừa đẹp tình đẹp ý với cuộc đời vừa thuận tiện cho con cháu đến thăm viếng đặt hoa thắp nhang.

Chị Bông tấm tắc khen:

–        Anh chị tính toán chu đáo và tuyệt vời quá.

Chị Phú thản nhiên:

–        Vợ chồng chị và vợ chồng tôi là chỗ quen biết nhau thân nên chẳng có gì phải che dấu, vợ chồng tôi xung khắc cãi nhau như cơm bữa nhưng ở đời người ta vẫn phải sống như một vở kịch, được cái là cả ông Phú và tôi đều giống nhau ở chỗ cần bề ngoài, thích bề ngoài, nhìn vào ai chẳng thấy chúng tôi là cặp vợ chồng già lý tưởng…

–        Nhưng anh chị cũng có cùng sở thích đấy, phòng ngủ riêng của mỗi người đều có một smart ti vi hiệu Samsung 48 inches

Chị Phú kêu lên:

–        Là bất đồng lớn đấy chứ sở thích gì, hai vợ chồng xem chung ti vi ngoài phòng khách thế nào cũng cãi nhau dù bất cứ đề tài gì nên quyết định mua mỗi người một cái trong phòng ngủ ai về phòng nấy mà xem, còn ti vi ngoài phòng khách nếu xem chung thì cấm ai được phát biểu ý kiến là yên chuyện. Giao kèo hẳn hòi..

–        Vậy là nhà có 2 vợ chồng mà 3 cái ti vi. Hãng Samsung trúng mối nhờ những cặp vợ chồng bất đồng đấy chị nhỉ

Chị Phú kể:

–        Tôi quen vợ chồng người bạn, cũng bề ngoài chung đôi như vợ chồng tôi. Chị ấy đã qua đời và an táng trong nghĩa trang "Mây trời xanh". Hai năm sau người chồng ốm đau thập tử nhất sinh, khi chưa vào hôn mê ông ấy cố gắng lấy sức tỉnh táo ngắn ngủi cuối cùng để dặn dò các con rằng: "Các con muốn hoả táng hay chôn cất bố kiểu nào cũng được nhưng tuyệt đối đừng cho bố nằm cạnh mẹ con. Bao nhiêu năm chung đôi với bà ấy rồi, lúc lià đời hãy…trả tự do cho bố …"

Chị Bông cười:

–        Chắc các con phải an táng ông bố trong một nghĩa trang khác, chứ cùng nghĩa trang "Mây trời xanh" bà vợ lại lò mò ra thăm ông ấy và trách mắng sao chúng mình không chung đôi thì hai hồn ma lại… cãi nhau., làm phiền những hồn ma khác.

–        Lúc nào riêng tư được thì cứ riêng tư chị Bông ạ. Tôi với ông Phú lúc trước đi bộ thể dục quanh khu phố nhà mình, nói chuyện một lúc thể nào cũng bất đồng ý kiến và cãi nhau, thế là tôi bèn nghĩ cách đi thể dục một mình với lý do chính đáng không ai hiểu được là tôi  né ông chồng. Tôi bắt chước mấy bà bạn gìa chuyên đi bộ trong mall, cái mall gần nhà tôi lái xe 10 phút là đến, chân đi giày bẹt như khi ta đi ra phi trường vậy đó, tha hồ thoải mái đi dạo trong mall, lên tầng xuống tầng bằng thang bộ, mùa hè mát mẻ, mùa Đông ấm áp, vừa đi vừa ngắm đủ loại quần áo và hàng hóa quên cả giờ về. Khỏe người, có khi lại mua được món hàng gía rẻ với lại tôi còn tha hồ mặc thử các loại quần áo và ngắm nghía mình trong gương cho …qua cơn ghiền shopping chứ tiền đâu mà mua hết những gì mình thích.…

Chị Bông thán phục và hí hửng:

–        Thì ra thế, người ta cứ tưởng chị vào mall mua sắm, cái điều mà chẳng ông nào thích "chung đôi" với vợ nơi chốn này. Hèn gì đi mall ngày thường tôi thấy nhiều…bà già ghê, cứ tưởng họ về hưu buồn chán nên đi shopping cho vui. Hẹn chị Phú một ngày nào đó chúng mình sẽ gặp nhau trong mall và đi bộ vài giờ liền chị nhé.

Chị Phú cao hứng kể thêm:

–        Vợ chồng tôi khác nhau cả những điều nhỏ nhặt, ở thành phố này có 3 hàng B.B.Q. bán vịt quay gần nhà, nhưng sở thích chúng tôi cũng….. không đụng hàng, ông Phú thích ăn vịt của tiệm A. còn tôi thì thích vịt tiệm B. ai cũng cho là vịt quay của tiệm mình chọn là ngon, là nhất.. Mỗi lần nhà cần ăn món vịt quay là hai vợ chồng lại tranh cãi, sau cùng tôi phải…tôi phải….

Chị Bông tranh lời và đoán gìa đoán non:

–        Chị phải mua vịt quay tiệm thứ ba. là huề cả đôi bên chứ gì? Hay là chị chiều chồng, nhịn chồng đi mua vịt quay tiệm A. cho anh vừa lòng ?

Chị Phú nở nụ cười mỉm, nụ cười bí ẩn như nàng Mona Lisa trong tranh:

– Không, tôi vẫn mua vịt quay tại cửa hàng B. tôi yêu thích đấy chứ..

Trong khi chị Bông đang ngơ ngác ngạc nhiên thì chị Phú bèn giải thích:

–        Nhưng tôi tỉnh bơ nói với ông Phú là tôi mua vịt của tiệm A. ông ấy ăn và khen ngon nức nở đúng gu của ông ấy. Nói dối mà vui vẻ cửa nhà chắc Trời Phật cũng thông cảm phải không chị Bông?

Chị Phú kết luận:

–        Chị Bông ơi, sở dĩ vợ chồng về già "xung khắc" vì ai cũng trở nên chướng. Coi như  "hoa Cẩm Chướng" nở trong nhà quanh năm .. Ngày xưa tôi yêu hoa Cẩm Chướng lắm, bây giờ thì không, cứ nghe đến tên hoa Cẩm Chướng là …hình ảnh ông Phú lù lù hiện ra.

–        Ôi, hoa Cẩm Chướng đẹp thế mà lại là hình ảnh của các vợ chồng già trái tính trái nết, tội nghiệp cho hoa quá….

Hai bà xem nhà và nói chuyện xong cùng ra ngoài phòng khách nói chuyện chung với hai ông. Chiếc Smart Tivi Samsung 50 mấy inches được mở lên đang có cảnh đẹp ở một đất nước nào đó, anh Bông rồi đến chị Bông vừa nói chuyện vừa khen cảnh trong phim trong khi hai vợ chồng anh Phú chỉ nói chuyện, tuyệt nhiên không ý kiến gì với cảnh trong ti vi.

Chị Bông hiểu là bản hợp đồng của vợ chồng chị Phú đã được tôn trọng.

Khi anh chị Bông đứng dậy cáo từ hai vợ chồng anh Phú, hai …đoá hoa Cẩm Chướng của đời nhau cùng tươi tắn, cùng sánh đôi ra tận cửa tiễn bạn và ríu rít như chim hót:

–     Hôm nay anh chị đến chúng tôi bất ngờ mà vui quá..

–        Hôm nào anh chị rảnh đến ăn với chúng tôi một bữa cơm tối nhé. Chúng tôi cùng mong đợi đấy.

Anh Bông có vẻ ngạc nhiên trước sự hòa hợp của vợ chồng chị Phú. Còn chị Bông thì bỗng…nghi ngờ tất cả những cặp vợ chồng già từng khoe là đồng cảm, trên thuận dưới hòa và hạnh phúc bên nhau suốt cuộc hành trình dài cuộc hôn nhân của họ.

                       **************

Buổi chiều ở nhà chị Bông mở ti vi lại thấy quảng cáo của nghiã trang "Mây trời xanh", quang cảnh thanh tịnh mát mẻ đúng là nơi yên nghỉ ngàn thu, chị Bông hối hả gọi chồng:

–        Anh Bông ơi, anh có thích cái này không?

Anh Bông từ trong phòng trong vọng ra:

–        Bà thích gì thì cứ việc xem đừng réo tên tôi. Bà biết rồi mà, những gì bà thích là tôi không thích.

–        Nhanh lên, cái này phải có anh cùng quyết định. 

Anh Bông tò mò đi nhanh ra ngoài còn kịp thấy cảnh những ngôi mộ trong nghĩa trang và lời quảng cáo vưà lập lại, anh khó chịu:

–        Bà bảo tôi xem cái này để quyết định cái gì? Nhà mình đang yên đang lành lại bàn chuyện nhà quàn nghĩa địa là sao? Bà dở hơi từ lúc nào thế?

Chị Bông giật mình, chẳng lẽ dưới mắt anh Bông chị đang là kẻ dở hơi, là "đóa hoa Cẩm Chướng" vô duyên?

–        Dĩ nhiên là không phải bây giờ. Mua mộ phần cho…tương lai anh và em.

Anh Bông bắt bẻ:

–        Lại càng dở hơi. Chữ "Tương lai"  dùng cho cảnh đời hi vọng tươi sáng phía  trước nghe hào hứng hơn là đem dùng cho một ngày buồn tang tóc chẳng ai đợi ai mong.…

–        Vậy thì em sửa lại đây, cho ngày sau chúng ta lìa đời. Hai mộ phần song song bên nhau thì được bớt 20% mà nếu trả tiền mặt từ bây giờ thì bớt đến 50%.

–        Bà đến chết vẫn còn tính toán đắt rẻ như đi chợ. Tôi biết rồi, bà muốn mua chỉ vì ham rẻ, cũng như khi đi shopping bà mua cả món đồ không thích nhưng vì giá rẻ. Nhưng xưa nay tôi và bà có mấy khi hợp nhau đâu, chung đôi làm gì hả?

–        Biết rồi, nhưng lúc ấy mình chết ngắc, chung đôi hay riêng lẻ cũng thế thôi. Trước mắt là tiết kiệm được tiền, mình lo trước thì con cái đỡ phải lo.

Anh Bông cương quyết:

–        Không, tôi và bà đã từng khác nhau trong ý nghĩ cho viễn cảnh này, tôi muốn được an táng trong nghĩa trang và có người hương khói còn bà muốn hoả táng và thảy tung tro bụi ra gió ra biển cho một kiếp người tản mạn bay đi khắp thế gian .

Chị Bông thở dài:

–        Ừ nhỉ, trong lúc cao hứng nghe quảng cáo và nhất là lúc nãy nghe chuyện chị Phú  nên em bất chợt nói thế thôi. Đến chết anh và em cũng không cùng suy nghĩ mà, mỗi người thích yên nghỉ một kiểu..

Giọng chị Bông bỗng như một nốt nhạc trầm:

–        Anh này…

–        Sao bà cứ lải nhải mãi thế? Bà muốn gì?

Chị Bông trách:

–        Ngày xưa quen em anh đến nhà em chỉ mong được nói chuyện cùng em. Bây giờ em muốn nói anh chẳng muốn nghe.

–        Mấy chục năm nay rồi bà ơi, vật đổi sao dời nữa là hai người trần gian chúng ta, bà muốn gì thì nói ngay đi, tôi không có thì giờ nghe bà nũng nịu…

–        Tự nhiên em buồn, em chỉ muốn chia sẻ cảm xúc là đời người thường có hai chuyến xe hoa, chuyến đầu là hoa cưới vui vẻ bên nhau, chuyến sau là hoa tang buồn bã, là chia lìa nhau. Thế thôi.

Anh Bông gạt phăng:

–        Sự đời nó thế, ai cũng thế, hơi đâu mà bà cảm xúc dư thừa vớ vẩn…

Chị Bông đành chịu thua chồng.

Hôm anh Sơn bạn cùng hãng anh Bông đến chơi nhà, chị Bông cùng chồng tiếp chuyện bạn, hỏi thăm anh chuyện sắp về hưu thì anh Sơn tâm sự:

–        Ai đi làm đến tuổi gìa chẳng muốn về hưu vui hưởng cảnh an nhàn, tôi cũng thế, nhưng bây giờ tôi đổi ý định rồi, thà đi làm có mệt mỏi còn hơn là về hưu vợ ở nhà , chồng cũng ở nhà mỗi ngày 24 tiếng có nhau, ra vào chạm mặt nhau không ….ly dị sớm cũng…chết sớm.

Chị Bông giả bộ ngây thơ:

–        Sao vậy anh Sơn? Ngày xưa thuở đang yêu các anh chẳng từng mong muốn được gặp nàng, được nhìn thấy mặt nàng là đã sung sướng biết bao.

–        Nhưng chị ơi, nàng bây giờ là bà già khó tính nói dai nói nhiều. Hai vợ chồng cãi nhau căng thẳng thần kinh lắm, không li dị thì cũng chết sớm chứ còn gì nữa.

Chẳng lẽ anh Sơn nói đúng? chẳng lẽ "hoa Cẩm Chướng" nở khắp mọi nhà của những đôi vợ chồng ở ngưỡng cửa tuổi già?

Về già ai cũng thay tính đổi nết, các ông cũng chẳng vừa nói chi các bà.

Những cặp vợ chồng đã đi với nhau suốt quãng đường dài, từ thuở tinh khôi mới lấy nhau đến lúc con đàn cháu đống nhìn mặt nhau bao nhiêu năm, thấy những thực tế đời thường của nhau bao nhiêu ngày tháng chán chường nhau đã đành.

Có những cặp giữa đường gặp gỡ, anh li dị, chị thôi chồng tưởng đôi ta bỗng tìm được một nửa mong ước đời nhau, cùng nhau đi nốt quãng đường còn lại, thời gian đầu cả hai đều lịch sự nhã nhặn như cặp đôi lý tưởng  trong phim truyện, trong tiểu thuyết, cả hai đều sống như người trong mộng của nhau, nhưng một thời gian sau đã quen mặt quen người thì họ lại hiện ra đúng cái tôi đời thường của họ, chàng và nàng cũng biết nói dối, nói ngang như cua bò, cũng …"hoa Cẩm Chướng" như ai, và thế là "hoa Cẩm Chướng" lại nở trong nhà, lại nở quanh năm…

Họ chướng tai gai mắt  nhau, bất đồng nhau  có khi còn nhiều  hơn người chồng cũ, người vợ cũ mà họ đã chia tay.

Và có những cố nhân thương hoài ngàn năm của thời xuân xanh ai đó  biết đâu cố nhân ấy đang là người chồng, người vợ dở hơi chán mớ đời, đang là "hoa Cẩm Chướng" không trồng mà mọc trong nhà của kẻ khác.

Cầu cho kiếp sau họ không gặp lại cố nhân.

Cầu cho kiếp sau những lời hẹn thề chung đôi không thành sự thật để họ sẽ mãi là cố nhân của nhau, cho cuộc sống trần trụi đời thường có chỗ thăng hoa niềm mộng mơ lãng mạn, cho ân tình không trọn vẹn sẽ đẹp mãi đến ngàn sau.

Chị Bông lại lên tiếng với anh Bông:

–        Em chợt nhớ ra bài báo mới đọc trên net hôm qua làm em chạnh lòng.…

–        Bà lại thương vay khóc mướn gì thế?

–        Lần này em không dở hơi đâu, em thương và khóc cho mình đó anh. Bài báo nói về nỗi cô đơn của người giả trong nursing home. Em sợ cô đơn và sợ…ma nữa, không dám ở trong nursing home một mình…

Chị Bông nài nỉ:

–        Bất cứ ông già bà cả nào dù có nhà riêng, có tiền của trong tay cũng không thể tự chăm sóc bản thân mình khi già khi bệnh, con cháu thì có cuộc sống riêng và bận rộn riêng của chúng nó nên nursing home là mái nhà sau cùng cho tuổi già khi ta sức tàn lực cạn. Về già vợ chồng mình cùng vào nursing home anh nhé, hai vợ chồng sẽ ở chung một phòng. ..

–        Trời…tới lúc ấy bà cũng…chưa buông tha tôi hả? hả? …

Chị Bông vội vàng xuống giọng:

–        Em hứa sẽ thay đổi tính nết, không …ngang tàng như bây giờ. Em sẽ không đòi để đèn sáng khi đi ngủ vì sợ ma làm cho anh chói mắt bực mình và trằn trọc cả đêm, em sẽ không mở nhạc tình cảm êm dịu để ru em ngủ nhưng lại làm anh điếc tai và mất ngủ, em sẽ không ….…

Anh Bông có vẻ thương cảm ngần ngừ:

–        Thôi đủ rồi…để tới lúc đó hãy tính, với lại bà đã già khú đế, đã lú lẩn thì biết gì đèn sáng hay đèn tắt, biết gì nhạc tình cảm du dương nữa chứ…

Chị Bông hỏi tiếp:

– Thế còn chuyện…về bên kia thế giới anh có chịu nằm cạnh em không?  

–        Nhất định là không…

–        Vậy em sẽ không đặt mua hai lô mộ phần gía rẻ, phải không?

–        Nhất định là không.

Chị Bông khẽ thở dài, không vì trách chồng từ chối chung đôi nơi suối vàng mà vì... tiếc món hàng rẻ không được mua.

Chị an ủi là biết đâu sau này anh Bông sẽ cùng chị vào ở nursing home cho đỡ tủi cái thân già…

Chị ra ghế sofa ngồi, chẳng biết làm gì chị liền lấy tờ báo Việt ngữ nằm chơ vơ trên bàn ra đọc.

Một mục cảm tạ cáo phó đập ngay vào mắt chị Bông: "Gia đình chúng tôi xin cảm tạ các chú bác họ hàng, các bạn hữu đã tiễn đưa linh cửu mẹ chúng tôi là bà qủa phụ Nguyễn thị Hoa Hòe đến nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang… "

Như vậy là người chồng đã mãn phần rồi, bây giờ đến lượt bà vợ

Chị bỗng bâng khuâng và tò mò tự hỏi không biết bà Nguyễn Thị Hoa Hòe có từng là "hoa Cẩm Chướng"  trong nhà không? và ông chồng có là "hoa Cẩm Chướng" của đời bà không?  hai vợ chồng nhà này có bất đồng nhau không?

Mỗi người sẽ yên nghỉ một cách hay họ vẫn kiên nhẫn nằm song song chung đôi hai mộ phần cho đẹp mặt với thiên hạ và vừa lòng con cháu?

Nguyễn Thị Thanh Dương.
( Jan. 09, 2016)
https://vbmdhk.org/hoa-cam-chuong-no-trong-nha-nguyen-thi-thanh-duong/