Wednesday, November 23, 2022

GS.TS Nguyễn Đức Dân: Tiếng Việt đang “dài” ra!

SGTT.VN - Trong một chương trình Chào buổi sáng (VTV1) mới đây, viên sĩ quan cảnh sát giao thông trả lời phỏng vấn rằng: "Chúng tôi đã xác định được những cơn mưa kéo dài trên một tiếng đồng hồ hoặc dưới một tiếng đồng hồ gây ngập lụt là 53 điểm". Sao không nói: "Chúng tôi đã xác định được 53 điểm cứ mưa to là ngập" cho gọn?

Cũng chương trình này, hàng ngày vẫn ra rả "người tham gia giao thông", "các phương tiện tham gia giao thông". Sao không nói "người đi lại", "xe cộ" cho ngắn?

Hiện tượng nói dài đang ngày càng trở nên phổ biến trong sách báo và văn bản tiếng Việt hiện nay. Vì sao?

Dai, dài, nhưng an toàn!

Anh dân quân đánh vần chưa thạo chữ quốc ngữ trong truyện Đôi mắt của Nam Cao đã nói thuộc lòng một bài ba giai đoạn kháng chiến phòng ngự, cầm cự, tổng phản công… "dài đến năm trang giấy". Những người này cứ nói ra "là thấy đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực dân, phát xít, phản động, xã hội chủ nghĩa, dân chủ với cả tân dân chủ nữa…" (trích Đôi mắt, 1948). Cách nay 63 năm đã xuất hiện trên cửa miệng người dân bình thường những khái niệm cao xa mấy ai hiểu hết ý nghĩa này. Sáu, bảy thập
kỷ là khoảng thời gian tạo ra hai thế hệ, đủ dài để hình thành thói quen nói năng đúng giáo điều mà không cần hiểu thấu đáo. Điều này dẫn tới hệ
luỵ là xã hội hình thành thói quen chấp nhận, tư duy thụ động, không muốn lật lại nghĩa lý của từ ngữ, câu chữ, khái niệm và lập luận khi tiếp nhận văn bản. Vả lại, nếu ai đó muốn bình luận sẽ tạo ra những lời nghịch nhĩ và trở thành "người có vấn đề". Kết quả là người ta lo nói năng an toàn, cầm giấy phát biểu theo những giáo điều, dần dần hình thành thói quen kết luận mà không chú ý tới lý lẽ thuyết phục. Nhiều người nghèo đi về ngôn từ và tư duy, nhưng vẫn cần thể hiện mình. Vậy là sinh ra lối nói sang trọng với nhiều từ Hán – Việt nhưng lại không hiểu thấu đáo và những câu hùng hồn dài dòng rỗng nghĩa.

Những lối nói dư thường gặp

Qua phim truyền hình và một số chương trình truyền hình gần đây, có thể bắt gặp những lối nói dư sau:

Dùng lặp hai từ Hán – Việt và thuần Việt đồng nghĩa: như "Nạn rải đinh tái xuất hiện trở lại" (Chào buổi sáng, 6.5.2011). Tái xuất hiện là xuất
hiện trở lại. Nói nạn rải đinh "xuất hiện trở lại" là đủ. Và "Mời các bạn nghe những tin tức cập nhật đầu tiên trong ngày" (Chào buổi sáng, 13.1.2010). "Cập nhật" là trong ngày. Nói "tin tức đầu tiên trong ngày" là đủ. Nguyên nhân chính của loại dư quá phổ biến này là trong nhận thức
của người Việt hiện nay, nghĩa của nhiều yếu tố Hán – Việt đã "mờ" đi nên nhiều người không thấy "dư" nữa.

Lặp lại những diễn đạt đồng nghĩa: như "Mục đích cô đến đây để làm gì?" (phim Cuộc gọi lúc 0 giờ, tập 18, VTV3). Sao không biên tập thành "Cô
đến đây làm gì?" cho gọn? Lại nữa: "Chắc có lẽ là vậy" (phim Cuộc gọi lúc 0 giờ, tập 19). "Chắc" và "có lẽ" là hai từ thể hiện hành vi phỏng đoán một khả năng không chắc chắn. Nói "Chắc vậy" hoặc "Có lẽ vậy" là đủ.

Đưa vào lời nói những yếu tố đương nhiên tồn tại: như "Anh xin lỗi! Anh đã tát vào má em" (phim Sự quyến rũ của người vợ, VTV3, 1.6.2011). Một
khi mở bàn tay đánh vào má thì gọi là "tát", đánh vào mông gọi là
"phát", đánh vào mồm miệng gọi là "vả", đánh vào tai gọi là "bạt". Vậy nói "Anh xin lỗi! Anh đã tát em" là đủ.

Nói dư thành sai: như "Ở Việt Nam chủ yếu có mấy loại gấu? Gợi ý: hai, ba hay bốn?" (Đấu trường 100, VTV3, 30.5.2011). Đáp án (lời MC): "Hai. Không có thêm loại gấu nào nữa đâu". Từ "chủ yếu" khiến câu hỏi định lượng này mang tính xác suất. Đáp án "hai" khiến người nghe nghĩ rằng còn một loại gấu thứ ba (thứ yếu) nữa. Dù 99,9% gấu ở Việt Nam là hai loại gấu ngựa và gấu chó thì vẫn có 0,1% thuộc loại gấu thứ ba. Nói như MC "Không có thêm loại gấu nào nữa đâu" là không chuẩn. Còn như, nếu chỉ có hai loại gấu thì từ "chủ yếu" làm câu hỏi trên sai.

Ví dụ khác: "Sáng tác này của Trần Hoàn vào năm nào: a) 1948, b) 1958, hay c) 1968?" Đội A: 1958. Lời MC: "Đáp án này hoàn toàn sai"; Đội B:
1948. Lời MC: "Vâng, hoàn toàn chính xác!" (Trò chơi âm nhạc, VTV3, 29.7.2011). Nếu 1948 là hoàn toàn chính xác, 1958 là hoàn toàn sai thì
năm nào là chính xác không hoàn toàn, năm nào là sai không hoàn toàn? MC nói dư từ "hoàn toàn".

Dùng chập những cụm từ đồng nghĩa: như "Một nữ tử tù trốn thoát, điều này chưa từng xảy ra bao giờ từ trước đến nay" (phim Nữ tử tù, VTV3,
17.5.2009). "Chưa từng" là chưa bao giờ và cũng là từ trước đến nay chưa xảy ra. Vì vậy, câu trên dư chập ba. Có ba cách nói ngắn hơn: "điều này
chưa xảy ra bao giờ"; "điều này chưa từng xảy ra" và "điều này từ trước đến nay chưa xảy ra".

Thói quen nói năng đúng giáo điều mà không cần hiểu thấu đáo dẫn tới hệ luỵ là hình thành thói quen chấp nhận, tư duy thụ động, không muốn lật lại nghĩa lý của câu chữ, khái niệm và lập luận khi tiếp nhận văn bản. Đây là nguyên nhân chính dẫn tới lối nói dư thừa.

GS.TS Nguyễn Đức Dân
http://sgtt.com.vn/Khoa-giao/152085/Tieng-Viet-dang-%E2%80%9Cdai%E2%80%9D-ra.html

Tuesday, November 1, 2022

Than Nghèo

Tác giả: Nguyễn Công Trứ

Chửa chán ru mà quấy mãi đây,
Nợ nần dan díu mấy năm nay.
Mang danh tài sắc cho nên nợ,
Quen thói phong lưu hóa phải vay.
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt,
Anh hùng khi gắp cũng khoanh tay.
Còn trời, còn đất, còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này ?

Có lẽ ta đâu mãi thế này,
Non sông lẩn thẩn mấy thu chầy.
Đã từng tắm gội ơn mưa móc,
Cũng phải xênh xang hội gió mây.
Hãy quyết phen này xem thử đã
Song còn tuổi trẻ chịu chi ngay ?
Xưa nay xuất xử thường hai lối,
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây.

Mãi thế rồi ta sẽ tính đây,
Điền viên thú nọ vẩn xưa nay.
Giang hồ bạn lứa câu tan hợp
Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say.
Tòa đá Khương Công (1) đôi khóm trúc,
áo xuân Nghiêm Tử (2) một vai cày
Thái bình vũ trụ càng thong thả,
Chẳng lợi danh gì lại hóa hay.

Chẳng lợi danh gì lại hóa hay,
Chẳng gì phiền lụy chẳng ai rầy.
Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp,
Trong thú yên hà mặc tỉnh say.
Liếc mắt coi chơi người lớn bé
Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay.
Của trời trăng gió kho vô tận,
Cầm hạc (3) tiêu dao đất nước này.


(1) Khương Công: tức Khương Thượng (còn được gọi là Khương Tử Nha, Lã Thượng, Lã Vọng) thường ngồi câu ở bến sông Vị trước khi ra giúp vua Chu Văn Vương.

(2) Nghiêm Tử: tức Nghiêm Tử Lăng, người đời Đông Hán, trước khi đắc dụng thường đi cày ruộng ở núi Phú Xuân.

(3) Cầm hạc: điển tích Triệu Thanh Hiến đời Tống đi làm quan ở đất Thục chỉ đem theo một cây đàn và một con chim hạc.