Thursday, October 19, 2023

"TAM THẬP NHI LẬP, TỨ THẬP NHI BẤT HOẶC" VÀ LỜI GIẢI CHO CUỘC ĐỜI

Chép lại từ trang mạng: 
29/11/2017
Lời giải cho cuộc đời: 30 tuổi lập cái gì, 40 tuổi mê điều chi?

Khổng Tử từng nói: "Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ", ý rằng: "Ta 15 tuổi chí ở học hành, 30 tuổi có thể tự lập, 40 tuổi không còn nghi hoặc, 50 tuổi biết được mệnh Trời, 60 tuổi ta biết điều phải trái, 70 tuổi tâm theo ý mình, có thể làm một cách tùy ý nhưng lại không vượt quá quy tắc".

Đây là tổng kết của Khổng Tử về cuộc đời mình, cũng là tấm gương cho những ai muốn theo đuổi một cuộc đời hoàn mỹ, đặc biệt là sau tuổi 30. Vậy thì khi đến ngưỡng 30 tuổi, 40 tuổi, 50 tuổi, 60 tuổi, 70 tuổi, chúng ta cần sống như thế nào?

1. Tam thập nhi lập: 30 tuổi có thể tự lập

30 tuổi là ngọn núi chia đôi dòng nước, chia đôi ngã rẽ của đời người. Con người ở độ tuổi này về cơ bản đã có thể xác lập được phương hướng phát triển cuộc đời mình. Họ cũng có thể dựa vào bản lĩnh của tự thân mà gánh vác những trách nhiệm mình cần đảm đương.

"Nhi lập" ở đây là lập thân, lập gia, lập nghiệp.

Lập thân là xác lập nhân cách và sự tu dưỡng của bản thân. Điều này bao gồm việc tu dưỡng trong tư tưởng và hàm dưỡng đạo đức, bồi dưỡng năng lực và có thể tự lực tự cường. Trong đó sự tự cường là cái gốc lập thân, là yêu cầu cơ bản nhất khi mỗi người muốn đứng vững trong xã hội.

Lập nghiệp là xác lập công danh, sự nghiệp mà mình muốn theo đuổi. Người 30 tuổi nên có nghề nghiệp vững chắc. Dẫu theo đuổi bất kỳ công việc nào cũng cần có một năng lực nhất định. Nói theo cách hiện đại chính là có một sở trường về kỹ năng nào đó. Lập nghiệp là phương thức mưu sinh, là cơ sở để độc lập về kinh tế. Đây cũng là quá trình con người ắt phải trải qua để thực hiện giá trị nhân sinh.

Lập gia là lập gia đình. Xã hội cạnh tranh mạnh mẽ ngày nay đã kéo dài tuổi lập gia đình của những người trẻ. Nhưng đứng từ góc độ sinh sôi nảy nở của nhân loại mà nói thì độ tuổi này lại rất phù hợp. Hơn nữa con người khi đến 30 tuổi sẽ hiểu rõ về hôn nhân và trách nhiệm.

Ý nghĩa của gia đình là tổ ấm. Lập gia đình thì tâm hồn mới tìm được bến đỗ bình yên để ngơi nghỉ. Còn về trình tự lập nghiệp và lập gia đình, do tình huống của mỗi người mỗi khác, nên chúng ta không phải câu nệ thứ tự trước sau, mà hai điều này đều tương trợ cho nhau.

2. Tứ thập nhi bất hoặc: 40 tuổi không còn mê hoặc 

40 tuổi là độ tuổi dùng điều bất biến để ứng vạn biến, là độ tuổi có thể nhìn thấu vạn vật trên thế gian, cũng là độ tuổi trưởng thành. "Bất hoặc" tức là tỉnh táo, là minh bạch về bản thân, về người khác và về thế giới.

Con người sống trong xã hội thì không thể tách khỏi xã hội. Mối quan hệ giữa con người và xã hội là mối quan hệ giữa cá thể và quần thể. Cá thể là một phần tử trong quần thể. Lý tưởng và nguyện vọng của một cá nhân phải được kiến lập dựa trên cơ sở của một xã hội hiện thực. Trong tâm cần có một sức mạnh điềm nhiên khi ứng phó với thế giới bên ngoài.

Hiểu thấu bản thân mình

Chính là khiến nội tâm mình dần dần trở nên lớn mạnh trong quá trình tôi luyện, biến những thứ bên ngoài trở thành năng lượng bên trong. Người 40 tuổi là người có độ tuổi thực tế nhất, không nên phạm quá nhiều sai lầm và đi đường vòng.

Hiểu rõ trách nhiệm của bản thân

Đặc điểm lớn nhất của người 40 tuổi là hiểu rõ trách nhiệm của bản thân mình. Họ phải gánh vác trách nhiệm xã hội, trách nhiệm gia đình, hiếu thuận với cha mẹ, và chịu trách nhiệm dưỡng dục con cái.

40 tuổi là thời kỳ huy hoàng trong đời người, cũng là thời kỳ có cống hiến lớn nhất cho gia đình và xã hội.

3. Ngũ thập nhi tri thiên mệnh: 50 tuổi biết được mệnh Trời

Mệnh Trời còn gọi là số mệnh, 50 tuổi biết mệnh Trời. Người 50 tuổi đã tới giai đoạn chín muồi trong cuộc đời. Lúc này có rất nhiều việc trong đời dường như đã thành hình.

Người 50 tuổi hiểu biết hơn về xã hội nên càng thấu hiểu bản thân hơn. Họ học được cách thản nhiên đối mặt với mọi việc. Họ không oán Trời, không trách người, không lười nhác.

Hiểu về thiên mệnh

Người 50 tuổi sức khỏe không còn như trước. Họ càng hiểu rõ hơn về sự yếu nhược của sinh mệnh, hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của sức khỏe. Sức khỏe là vốn liếng của sinh mệnh. Không khi nào con người lại có trải nghiệm sâu sắc như thế về sức khỏe như ở độ tuổi này. Họ sẽ chú trọng tới việc dưỡng sinh hơn trước và bắt đầu tích cực rèn luyện.

Người 50 tuổi đã có sự đánh giá khá chuẩn xác về bản thân mình. Họ rất ít khi dao động, khiến tâm trạng lên lên xuống xuống vì một chuyện gì đó. Trải qua bao nhiêu năm vất vả họ cũng có một điều kiện kinh tế nhất định, tham vọng tiền tài cũng không còn mạnh mẽ như khi còn trẻ nữa.

Biết trân trọng tình cảm

Người 50 tuổi đã trải qua sự gột rửa của thời gian. Họ sẽ biết trân quý hơn người bạn đời đồng cam cộng khổ trong đời mình, biết trân trọng hơn đứa con đã trưởng thành và những người bạn cũ luôn kề vai sát cánh bấy lâu nay… Tình thân, tình bạn, tình yêu, những điều này dần sẽ trở thành những điều quan trọng trong số những điều được coi trọng trong lòng họ. Tâm danh lợi của họ cũng dần tiêu tan.

4. Lục thập nhĩ thuận: 60 tuổi tai biết điều phải trái

Tới khi 60 tuổi, dẫu cho ai nói ngả nói nghiêng, dù gặp phải trắc trở, khó khăn thế nào thì con người cũng đều không quá kích động. Họ có thể suy nghĩ mọi sự một cách điềm tĩnh và thuận theo quy luật của sự vật. Họ có thể thản nhiên trước vinh nhục, ngộ ra ý nghĩa đời người, nhìn thấu kiếp nhân sinh và coi nhẹ danh lợi.

60 tuổi nhìn thấu kiếp nhân sinh

Từ khi nghỉ hưu, họ chuyển từ vai trò chính ngoài xã hội về với vai trò chính trong gia đình, vui hưởng đạo cùng trời đất. Người 60 tuổi đã minh bạch những điều này, nên có thể vui vẻ tiếp nhận cuộc sống hiện thực và hiểu rõ cuộc sống nên có của một người ở độ tuổi này.

60 tuổi nhìn thấu sinh mệnh

Người 60 tuổi phải sống thật mạnh khỏe, vui vẻ, điều này cũng là một sự cống hiến đối với xã hội. Ý nghĩa của sinh mệnh là nghĩ cho người khác nhiều hơn là đòi hỏi cho riêng mình. Khi bạn đã làm được thì cũng không còn gì phải nuối tiếc nữa.

Người 60 tuổi nhìn thấu danh lợi, nhờ trải qua sự tôi luyện của tháng năm mà lưu lại những kinh nghiệm phong phú của bản thân mình.

Trong cuộc sống nhàn nhã, họ thường hồi tưởng về những ký ức đắng cay ngọt bùi như một trải nghiệm đặc biệt trong mùa thu cuối đời. Khi đã về hưu thì họ chỉ còn sót lại một danh xưng: "Người về hưu". Lúc này duy chỉ có sức khỏe là của bản thân mình. Vậy nên giữ gìn chăm sóc sức khỏe cho mình, sống mạnh khỏe, hạnh phúc mới là điều quan trọng nhất.

5. Thất thập tòng tâm sở dục: 70 tuổi tâm theo ý mình

Người 70 tuổi có thể muốn gì làm nấy theo cách nghĩ của mình. Họ biết cách sống thuận theo tự nhiên, thích ứng với mọi hoàn cảnh, cũng không được vượt quá quy củ.

Cơm ăn không quan trọng cao lương mỹ vị hay đạm bạc đơn sơ, chỉ cần thấy ngon miệng là được. Phòng ốc không quan trọng lớn hay nhỏ, chỉ cần sống vui vẻ là được. Hãy làm những chuyện bản thân thấy hứng thú, đừng oán người, trách trời, trách đất, cũng đừng để tâm lo nghĩ quá mức tới người khác. Thấy sức khỏe suy giảm từng ngày cũng đừng hoảng hốt, thấy cái chết cận kề mỗi ngày cũng đừng khiếp sợ. Mọi thứ cứ thuận theo tự nhiên, tùy cảnh mà an.

Mỗi giai đoạn trong đời người đều có những trải nghiệm riêng trong từng giai đoạn ấy. Chúng ta không nhất định cứ phải làm theo một thước đo hay một chuẩn mực nào đó. Nhưng mỗi một giai đoạn chúng ta đều nên có sự kỳ vọng về bản thân mình. Tệ nhất thì 10 năm một lần chúng ta cũng nên ngẫm nghĩ lại về bản thân. Những điều không thể quên chính là hồi ức, nhưng điều vẫn tiếp diễn là cuộc sống. Hãy sống hết mình mỗi ngày để có thể sống trọn vẹn cả một đời.

Theo ĐKN


Monday, October 9, 2023

TÌNH GIÀ... TUỔI GIÀ.. - Đặng Thị Thanh An

Tác giả: Đặng Thị Thanh An


Trăm năm trong cõi người già
Chuyện gần nhớ ít, chuyện xa nhớ nhiều
Chuyện từ thời bé tẻo teo
Nhớ từng chi tiết chẳng điều nào quên
Thế mà chuyện mới kề bên
Chưa ra khỏi ngõ đã quên mất rồi
Mắt đang đeo kính hẳn hoi
Bà tưởng mất kính khắp nơi bà tìm
Tờ báo ông để ngăn trên
Ông lục ngăn dưới nên tìm chẳng ra
Chìa khóa bà để trên nhà
Bà chạy xuống bếp tìm ba bốn lần
Dép, giày ông để ngoài sân
Gầm giường ông kiếm nên lần không ra.
Gặp người hàng xóm chào qua
Nghĩ hoài không nhớ ông, bà tên chi
Thẫn thờ ngồi trước ti vi
Mắt tuôn đầy lệ bờ mi ướt nhòe
Thương người, cám cảnh, nhớ quê
Chuyện nhà, chuyện nước khó bề ngồi im
Xem ra cảm xúc đầy mình
Dễ hờn,dễ tủi,nặng tình nghĩa nhân!
Tai nghe phải nhắc nhiều lần
Tập trung cố gắng mười phần hiểu ba
Mắt nhìn mở đến tối đa
Trông gà hóa cuốc, quạ thành đa đa
Lương hưu tưởng đã đưa bà
Ông yên chí cất đến ba, bốn ngày
Hết tiền bà giục đi vay
Giật mình thảng thốt: tiền đây thưa bà.
Bà lườm ông chỉ cười xòa
Quên tiền thì có, quên bà thì không.

(Đặng Thị Thanh An 3/2021)

Tuesday, September 19, 2023

CHƯA TU VÀ ĐÃ TU

(Sưu tầm)

1. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng biết níu giữ là khôn ngoan. Nhưng khi TU RỒI, ta mới nhận ra rằng biết buông bỏ mới là trí tuệ.
2. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng người giàu có là người lấy về rất nhiều. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng người giàu có là người cho đi rất lớn.
3. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng mạnh mẽ là vượt qua người khác. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng mạnh mẽ là vượt qua chính mình.
4. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng kẻ nói nhiều là kẻ thông minh. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng người biết lắng nghe mới là người thông thái.
5. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng nếu ta thắng phải có hơn người thua. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng đến nơi là mọi người cùng thắng.
6. Khi CHƯA TU, ta thường muốn sống thật lâu. Nhưng khi TU RỒI, ta muốn sống sao cho có ý nghĩa với cuộc đời .
7. Khi CHƯA TU, ta thường muốn người khác chấp nhận mình. Nhưng khi TU RỒI, ta nhận ra rằng chỉ cần mình chấp nhận mình là đủ.
8. Khi CHƯA TU, ta mong muốn thay đổi cả thế giới. Nhưng khi TU RỒI , ta mong muốn thay đổi chỉ bản thân mình mà thôi.
9. Khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng khi trưởng thành, ta sẽ không còn bị tổn thương nữa. Nhưng khi TU RỒI, ta mới biết rằng, trưởng thành là biết điều chỉnh tiếng khóc về chế độ im lặng.
10. Và khi CHƯA TU, ta thường nghĩ rằng có tiền sẽ có tình yêu, có vật chất người ta sẽ quý. Nhưng khi TU RỒI, ta sẽ biết rằng: KHI SỐNG THIỆN LƯƠNG BẠN SẼ CÓ MỌI TRÁI TIM YÊU THƯƠNG
(Sưu tầm)

Sunday, September 10, 2023

BỊ BẮT VÌ NGHE LỜI VỢ

(Sưu tầm)
Một tên trộm bị bắt khi cố đột nhập vào một cửa hàng bán bánh Trung thu lúc nửa đêm. Sau khi xem lại băng ghi hình, thẩm phán nhìn tên tội phạm một cách kỳ quái:
- Tôi không tài nào hiểu được tại sao cậu trộm ở một cửa hàng đến ba lần trong một đêm. Rõ ràng lúc đầu đã lấy được bánh rồi sao lai phải mang trả lại chứ?
Tên trộm thở dài:
- Vì vợ tôi thưa ngài.
Vị thẩm phán tò mò:
- Ý cậu là sao?
Tên trộm khổ sở đáp:
- Lúc đầu tôi lấy một hộp bánh nhưng vợ tôi chê nhỏ quá, khi tôi quay lại đổi hộp khác to hơn thì cô ấy lại bảo không thích ăn bánh nhân thập cẩm, đến lần đổi thứ ba thì bị bắt.
(Sưu tầm)

Sunday, September 3, 2023

MINH OAN TRẦN KHẮC CHUNG VÀ HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA

Tác giả: Hoàng Hương Trang

HuyenTranCongChua.jpg

Từ xưa đa số người Việt mặc nhiên cho rằng Trần Khắc Chung và Huyền Trân Công Chúa là một mối tình. Họ kể truyền miệng đời này qua đời khác thành ra vô tình đã "Đóng Đinh" đó là một mối tình như có thực. Chính tôi từ mấy chục năm qua cũng tin như vậy. 

Cứ cho là trước khi đi làm vợ vua Chiêm Chế Mân, Huyền Trân Công Chúa đã có ý tình dan díu với Trần Khắc Chung, nên khi Chế Mân chết, vua Trần sai Khắc Chung đi cứu con gái khỏi bị hỏa thiêu chết theo chồng theo phong tục của hoàng gia Chiêm Thành, thì hai người "Tình cũ" lại được "tái hợp". 

Cuộc cứu hộ Công Chúa thành công và hai người lênh đênh trên biển một thời gian khá dài có đến hàng năm, mới về tới Thăng Long.

Mãi cho đến khi thành phố Huế xây dựng Trung tâm văn hóa Huyền Trân, mà dân Huế gọi là Đền thờ Huyền Trân Công Chúa; tôi có dịp đến viếng, tìm hiểu cặn kẽ, đọc kỹ sử liệu và văn bia tại đền thờ, thật sự tôi đã sững sờ, ngỡ ngàng khi biết ra sự thật có trong sử liệu và văn bia tại Đền Thờ do Ban Nghiên Cứu Sử uy tín đã viết lại cho đúng sự thật. Ôi! Một nỗi oan đã kéo dài với thời gian mấy thế kỷ, mà không ai minh oan cho hai người. 

Theo sử liệu, khi Công Chúa Huyền Trân còn ở Thăng Long, chỉ mới 13 tuổi, đã được vua cha hứa gả cho Chế Mân. Khi đó, Lão Tướng Trần Khắc Chung đã rất già, vốn không phải họ Trần, mà là họ Đỗ, vì có nhiều công chiến trận nên được vua cho cải ra họ Trần. Lão Tướng ngoài tài trận mạc, còn có tài thêu thùa rất khéo tay, vì vậy các công chúa trong triều được Lão Tướng dạy cho học thêu thùa. 

Công Chúa Huyền Trân lúc đi lấy chồng mới 15 tuổi, là cháu ngoại của Danh Tướng Trần Hưng Đạo. Lúc đó, Lão Tướng Khắc Chung đã già, đã có 3 đời vợ, con cháu đầy đàn, không thể nào lại dan díu với cô Công Chúa 13 tuổi là cháu ngoại của Trần Hưng Đạo được. Thuở xa xưa trên 700 năm trước đó, một cô gái nhỏ mới 13, 14 tuổi có dám yêu một ông già đã có vợ, con, cháu đầy đàn? Ngay thời đại ngày nay, điều đó cũng khó có thể xảy ra.

HuyenTranCongChuaTTVanHoa.jpg
Toàn cảnh Khu trung tâm văn hóa Huyền Trân tại thôn Ngũ Tây, phường An Tây, thành phố Huế.

Cho đến khi vua Trần sai đi cứu Công Chúa là vì Lão Tướng đáng tin cậy, có nhiều mưu kế, từng trải trận mạc, mới có thể cứu được Công Chúa thoát khỏi lên giàn hỏa thiêu.

Lúc này Công Chúa mới sinh Hoàng Tử được 2 tháng. Lão Tướng Khắc Chung đã tương kế tựu kế, vừa thay mặt vua Trần để phúng điếu với triều đình Chiêm Thành (Chế Mân chết, Chế Cũ lên nối ngôi vua cũng chỉ mới trên dưới 15 tuổi, là con trai của bà Hoàng hậu lớn của Chế Mân, còn con của Huyền Trân là Chế Chí mới sinh được 2 tháng) vừa đề nghị với triều đình Chiêm Thành cho phép Công Chúa Huyền Trân ra biển Đông để hướng về quê hương bái biệt vua Cha, rồi sẽ trở vào để lên giàn hỏa.

HuyenTranCongChua2.jpg
Điện thờ Công chúa Huyền Trân trong Khu trung tâm văn hóa Huyền Trân.

Triều đình Chiêm Thành đã bị mắc mưu của Lão Tướng Việt Nam, đã bằng lòng cho Công Chúa Huyền Trân ra biển để bái biệt vua cha.

Vừa hay trời phù hộ cho Lão Tướng, sương mù dày đặc bao phủ cả biển khơi, ba bên bốn bề đều không thấy rõ, nhân cơ hội đó, Lão Tướng đưa Công Chúa qua thuyền nhẹ, và dông tuốt về phía Bắc. Trên thuyền chỉ có mấy thủy binh chèo thuyền, thuyền nhẹ đi rất nhanh, sương mù đã che khuất bóng họ.

Khi thuyền vào đến vùng biển Quảng Trị thì bị bão lớn, sóng đánh dữ dội suýt chìm thuyền, phải tấp vào bờ. Vùng đất Quảng Trị bấy giờ thuộc hai Châu Ô, Lý là đất mà Chế Mân đã dâng cho vua Trần làm sính lễ để cưới Công Chúa nhà Trần.

Đất đã là của nước Việt, có quan trị nhậm do vua Trần cử đến cai quản. Chính quan cai quản đất mới này đã giấu nhẹm rất bí mật tung tích của Lão Tướng và Huyền Trân, chờ hết mùa giông bão, sửa chữa thuyền xong mới có thể tiếp tục hành trình ra Bắc.

Tại sao phải giấu tung tích?

Bởi thủy quân Chiêm Thành rất giỏi thủy trận, đã từng đánh ra tận Thăng Long thời Chế Bồng Nga, do đó họ có thể cho thuyền truy lùng thuyền của Khắc Chung và Công Chúa. Hai người được vị quan Việt Nam giấu kỹ đồng thời lo sửa chữa thuyền bè đã bị bão làm hư hỏng nặng. Hơn năm sau, hết mùa bão, trời yên biển lặng, quân Chiêm không truy đuổi nữa, thuyền cũng đã sửa chữa xong, họ mới tiếp tục cuộc hải trình ra Bắc.

Tuy được cứu thoát, nhưng Công Chúa trong tâm trạng mất một đứa con trai đầu lòng mới 2 tháng tuổi, cùng với nỗi đau vừa mất chồng, cùng nỗi sợ hãi vừa thoát lên giàn hỏa thiêu. Thử hỏi trong tâm trạng đau buồn mất chồng, mất con, và lo sợ như thế, còn tâm trạng đâu để dan díu, ngoại tình?

Sở dĩ người đời sau thêu dệt nên mối tình Trần Khắc Chung và Công Chúa Huyền Trân là do họ đồng hóa với mối tình Tây Thi – Phạm Lãi bên Tàu.

Sau khi báo thù vua Tàu, Tây Thi đã theo người tình cũ là Phạm Lãi chèo thuyền chu du vào Ngũ Hồ sống với nhau, lênh đênh bềnh bồng trên sóng nước, bỏ lại thế gian sau lưng. Do đó người Việt đời sau cứ thản nhiên đồng hóa mối tình Tây Thi – Phạm Lãi và Huyền Trân – Trần Khắc Chung như là một.

Đó là nỗi oan của Lão Tướng Trần Khắc Chung và là nỗi oan của sương phụ Huyền Trân mà ngày nay chúng ta phải hiểu và đánh giá lại cho rõ ràng.  

Khi về đến Thăng Long, Huyền Trân lên núi Yên Tử trình diện vua cha là Phật Hoàng Trần Nhân Tông, rồi quy y đi tu, lấy pháp danh là Hương Tràng ni sư. Bà vừa tu hành vừa dạy dân dệt vải và làm thuốc cứu bệnh cho dân.

Tôi ước mong rằng người Việt Nam ta ai cũng có dịp đến viếng đền thờ Huyền Trân Công Chúa ở Huế để có dịp tận tường đọc kỹ văn bia và sử liệu chính thức đáng tin cậy để minh oan cho Công Chúa Huyền Trân và Lão Tướng Trần Khắc Chung.

Riêng tôi, sau lần có dịp đến viếng đền thờ và đọc cặn kẽ sử liệu, văn bia. Tôi đã thắp hương cúi đầu chân thành tạ lỗi với người xưa, vì mình đã lầm tưởng mấy chục năm qua chỉ vì hai chữ "tương truyền", oan cho một người phụ nữ đoan hạnh và một vị Lão tướng tài ba.

Hoàng Hương Trang